Thứ Hai, 28 tháng 12, 2009

NAM HUỲNH ĐẠO – CẢ NHÀ CÙNG VUI KHỎE TẬP KUNG-FU



--------------------------------------------------------------------------------------------



--------------------------------------------------------------------------------------------

Chào mọi người!

Đây là gia đình của anh Cao, chị Ngọc và bé Tuấn Võ – 6 tuổi, lớp 1 trường Nguyễn Đình Chiểu. Mỗi ngày cả nhà đều cố gắng dành một ít thời gian để tập luyện kung-fu, không những nâng cao được sức khỏe mà còn đem lại nhiều tiếng cười hơn trước.
“Trước đây cu Bin rất nhút nhát lại hay bị đau ốm lặt vặt nên tôi quyết định cho bé đi tập võ tại Đình Nam Chơn. Sau khoảng 3 tháng tôi thấy bé khỏe hẳn hầu như không đau ốm gì nữa và trở nên dạn dĩ, thỉnh thoảng lại “biểu diễn” cho các chú các bác xem, lại còn làm “huấn luyện viên” cho bố mẹ tập ở nhà nữa chứ. Làm cha mẹ ai mà không vui khi thấy con ngày càng khỏe mạnh! Thấy sức khỏe con tốt lên nhanh, vợ chồng tôi cũng “tập thử” Môn này xem sao. Chỉ cần khoảng 3 buổi đầu làm quen với động tác mọi việc đã trở nên dễ dàng, thật sự rất dễ tập chứ không khó như khi đứng ngoài nhìn vào xem. Tất nhiên ở mức độ sức khỏe thôi chứ mấy động tác khó như bay nhảy, nhào lộn hay đánh đấm thì mình không quan tâm. Đến nay vợ chồng tôi đã tập được 3 tháng, sức khỏe cải thiện nhiều lắm, đặc biệt là mấy triệu chứng của bệnh đa xoang của tôi cũng không còn nữa” anh Cao nói.

Lời của chị Ngọc: “Trước đây mình cũng thường tập thể thao, có tập Yoga nữa nhưng tập Môn này thấy tốt hơn rất rõ. Sức khỏe mình hiện tại rất tốt, cơ thể săn chắc, giữ được vóc dáng, nhất là triệu chứng dị ứng viêm xoang (hay bị ngứa mũi) đã hết hồi nào không hay. Mình cũng đã tập được một số động tác khó mà trước đây mình không bao giờ nghĩ là có thể làm được”.

Lời bàn:

Quả thật, khi nghe nói tập võ thì nhiều người không mấy thiện cảm hoặc “sợ quá sức” nhưng nếu có duyên tập đúng môn công phu thì chắc chắn mọi người sẽ thay đổi quan niệm của mình. Bởi một môn công phu chính tông của Đông phương phải được đúc kết hàng trăm năm, qua nhiều sự kiện lịch sử chống ngoại xâm, kinh qua chiến trận, qua y thuật cứu chữa người. Nên yếu lĩnh của một môn võ chân chính phải là “Dưỡng sinh chi đạo” – bảo vệ và nuôi dưỡng cuộc sống tốt nhất. Do đó, hệ thống vận động của chân võ thỏa mãn được sức hấp thụ của mọi lứa tuổi, từ già đến trẻ, từ cơ bản đến nâng cao, dễ đến khó tùy theo sức khỏe của từng người học. Đối với người lớn tuổi, người có bệnh thì phù hợp với các bài tập dưỡng sinh khí công; đối với thiếu niên nhi đồng thì phù hợp với các bài tập dẽo dai, linh hoạt; đối với thanh niên thì phải tập luyện các bài tập phát huy sức mạnh tối đa…

Tập luyện tại Môn phái Nam Huỳnh Đạo tôi luôn tự hào rằng mình đã rất may mắn học đúng môn công phu chính thống. Nam Huỳnh Đạo có đầy đủ căn cơ từ lịch sử đến di sản võ công, y đạo… Qua thực tế gần 20 năm trong đại chúng, rất nhiều người sau khi tập luyện đã khỏi hẳn một số bệnh khó trị như viêm gan, tim mạch, huyết áp, rối loạn tiền đình… và còn rất nhiều điều bổ ích trong cuộc sống hiện đại.

Có lẽ đứng ngoài tìm hiểu, nghiên cứu, miêu tả thật sâu sắc cũng không bằng sự trải nghiệm của chính bản thân mỗi người. Đừng miêu tả nước mà hày nhúng mình trong nước, hạnh phúc thật sự đang diễn ra mà không lời nào có thể diễn đạt. Bởi khi mở miệng nước sẽ tràn vào…

Thứ Ba, 24 tháng 11, 2009

Chỉ số hạnh phúc

Hạnh phúc là gì? Đây là loại câu hỏi có vô số câu trả lời. Như cánh xe ôm chúng tôi, hạnh phúc là buổi sáng lúc dắt xe ra vợ cười tươi tạm biệt, con chúc bố may mắn và ông hàng xóm dặn chiều về sớm làm vài ly lai rai…

Một trong những buổi sáng hạnh phúc như thế, vợ tôi tất tả chạy đến tìm, vẻ quan trọng: “Anh ơi, về nhà ngay, có người tới nhà mình đo đạc gì đó”. Như vậy là hồ sơ xin cấp chủ quyền nhà của mình đã được ngó tới rồi chăng? Tôi mừng rỡ lao ngay về nhà, nói ngay khi vừa thấy anh nhân viên ăn mặc lịch sự: “Của tôi tổng cộng là mười tám mét vuông, cậu cứ đo lại đi…”. Anh nhân viên khoát tay, lắc đầu: “Mét vuông gì! Ai đo nhà đâu mà mét vuông. Xin giới thiệu với anh, tôi là nhân viên của tổ chức Hạnh phúc toàn cầu, tôi đến để đo hạnh phúc của gia đình anh chị”.

Tôi nghệt mặt ra: “Hạnh phúc mà cũng đo được à?”. Anh ta cười: “Được chứ sao không, tới sao Hỏa xa lơ xa lắc còn đo được huống gì là… Mà cái này đo dễ lắm, anh chỉ cần trả lời những câu hỏi có sẵn ở đây là được. Đầu tiên, nhà ở của anh thế nào?”. Tôi cười gượng: “Cậu thấy đó, nhỏ như cái lỗ mũi”. Anh nhân viên cũng nhìn quanh một vòng rồi ghi vào chỗ trống sau ô “nhà cửa” hai chữ “ấm cúng”. Tôi chưa kịp thắc mắc thì anh ta đã hỏi tiếp: “Sức khỏe cả nhà ra sao?”. Tôi vặn vẹo hai bàn tay, lướt qua thân hình mỏng tanh của mình: “Nói chung là… cả nhà ai cũng như tôi đây”. Anh nhân viên gật gù, điền ngay vào ô “sức khỏe” dòng chữ: “Không ai có nguy cơ béo phì, cao huyết áp và tiểu đường”. Lần này anh ta cũng không để tôi kịp phản ứng. Tiếp tục: “Mơ ước gì?”. Mơ ước gì ư? Tôi lén nhìn vào ô trả lời trong tờ giấy anh ta đang cầm và thầm nhủ: “Nhiêu đó sao đủ ghi”, nhưng cũng không nên để người khác đánh giá mình tham lam, tôi ngập ngừng: “Nói thật với anh, tôi chỉ ước có tiền để dẫn cả nhà đi ăn món gà rán một bữa thỏa thích”. Anh nhân viên nhìn tôi chằm chằm, vẻ thán phục: “Anh thật là… hạnh phúc!”.

Đợi tôi mở hết cả mắt lẫn miệng vì ngạc nhiên, anh ta mới thong thả: “Anh biết không, món gà rán chỉ thật sự ngon khi chúng ta… nghĩ tới nó, thèm khát nó và mơ ước nó. Đó mới chính là hạnh phúc, thật là bất hạnh cho những ai đã ngán món gà rán. Cũng như các cô gái đẹp, người ta chỉ hạnh phúc khi còn mơ ước tới họ, có rồi thì… ngán lắm, như món gà rán vậy!”. Tôi chưa bao giờ mơ ước về các cô gái đẹp, phần vì rất chung thủy với vợ, phần khác là không có đủ tiền, nhưng xem ra tay nhân viên này cũng có lý. Có lý nhất là sau khi kết thúc buổi hỏi han, anh ta vui mừng bắt tay tôi: “Chúc mừng anh Tư, gia đình anh có chỉ số hạnh phúc loại A, là loại cao nhất!”. Tôi như người đang đi trên mây, sung sướng đến nỗi anh nhân viên chào ra về lúc nào tôi cũng không hay.

Đang ngả lưng khoan khoái để cho cái loại A hạnh phúc vừa nhận được chảy tràn qua từng lỗ chân lông thì có tiếng vợ từ ngoài cửa: “Anh ơi, bà Ba đầu xóm gọi anh chở bả đi đâu đó gấp kìa!”. Tôi bật dậy, lao đi quên cả chuyện thông báo với vợ về cái loại A hạnh phúc vừa được công nhận. Bà Ba là một “mối” sộp, ngày nào cũng đi làm từ thiện. Ngay trước cửa căn biệt thự nhà bà Ba, ông Ba đang ngắm nghía chiếc xe hơi vừa mới đổi, liếc nhìn tôi: “Cậu chờ bả một chút”. Rồi ông ấy nhìn chiếc xe mới, than thở: “Đi xe gắn máy như cậu thật… hạnh phúc. Xe hơi bây giờ chẳng còn đường để chạy”. Tôi bất giác khoét thêm nỗi đau của ông Ba: “Gia đình chú xếp loại hạnh phúc gì?”. Ông ấy nhìn xuống đất, lí nhí: “Loại C!”. Tôi an ủi: “Thôi, đừng buồn, cố gắng lên chú Ba à. Với lại, nếu cần cháu sẽ giúp chú tăng hạng xếp loại”. Ông Ba tròn mắt nhìn tôi: “Giúp à, giúp thế nào?”. Tôi nhìn quanh rồi ghé sát tai ông ấy thì thào: “Khi nào có gà rán hay gái đẹp, chú cứ gọi cháu. Cháu có thể san sẻ bớt bất hạnh cho chú”.

Sưu tầm

Thứ Bảy, 21 tháng 11, 2009

SỨC KHỎE CÓ THẬT SỰ LÀ VÀNG ?

Nếu có ai đó dù khỏe mạnh nói rằng sức khỏe là vàng mà trong túi chẳng có tí nào thì sẽ bị người đời cười khẩy! Người ta chỉ quan tâm tới việc kiếm vàng thật bỏ vào trong túi thôi, thậm chí sẵn sàng hy sinh sức khỏe để đổi lấy tiền bạc trước. Nên mới có những lời nói trong dân gian như “lúc trẻ thì bỏ sức khỏe để kiếm tiền, lúc già thì bỏ tiền để tìm sức khỏe”, hay “thà ráng kiếm thật nhiều tiền để được vào bệnh viện sang vẫn sướng hơn!”.

Chúng ta đang sống trong một xã hội hiện đại và tiêu chí của xã hội hiện đại là phải đáp ứng nhu cầu của con người một cách tốt nhất. Các nhà kinh tế học đã cho ra những học thuyết “kích cầu” tức phải tạo ra nhu cầu thật nhiều để người ta tiêu tiền càng nhiều càng tốt. Xã hội hiện đại đã chế tạo ra chiếc xe máy, rồi xe hơi, máy bay, tivi, tủ lạnh, vi tính… đã giúp cho con người giải phóng khỏi lao động chân tay. Ấy vậy mà có một vài anh chị thường than với tôi “sao bây giờ trẻ nó làm biếng quá! Nhờ nó chạy ra mua bịch đường ở ngoài ngõ mà nó cũng … cởi xe máy. Dường như cuộc sống hiện đại được xây dựng xoay quanh cái “rờ-mốt và cục alô”. Chỉ cần ngồi một chỗ bấm bấm là xong, ngồi ở nhà mà biết cả thế giới. Quả thật, nhiều người bây giờ có tiền, cứ ngồi ở nhà mà kêu …am-bu-lăng (xe cấp cứu) tới hoài. Đó là mặt trái của xã hội hiện đại. Kết quả chúng ta nhận được là rất nhiều người thậm chí cả giới trẻ bây giờ bị béo phì, tiểu đường, đau nhức xương khớp đủ thứ. Nước nào càng giàu thì càng than khổ vì béo phì. Ngày xưa ở Việt Nam làm gì có bệnh tiểu đường nhưng bây giờ được xếp vào những nước có tỷ lệ người mắc bệnh tiểu đường cao nhất. Tiêu tốn biết bao nhiêu tiền bạc cũng không chạy chữa hết, quan trọng là những nỗi đau âm ĩ bên trong cơ thể mà họ phải tự chịu đựng. Lúc này họ mới suy nghĩ lại sức khỏe là vàng!

Có lần tôi vào bệnh viện Chợ Rẫy thăm người quen bị tiểu đường, không biết ai sao chứ tôi thì thấy kinh khủng khi thấy mỗi ngày đều có mấy ca tháo khớp, cưa chân. Rồi có lần vào khoa Nội chứng kiến nhiều ca viêm gan, loét bao tử, xuất huyết bao tử… muốn ăn một chút cũng không ăn được, đau nhức thì không lời nào tả nổi, tiền thuốc thì mỗi ngày hơn tiền triệu, phòng bệnh không có đủ giường nằm phải chen chúc nhau 2-3 người một giường. Ngay cả khi có tiền muốn ở phòng dịch vụ (phòng đặc biệt, giá cao hơn) cũng phải xin xỏ hay quen biết lắm mới được. Nhưng đối với hầu hết tất cả các bệnh, bác sĩ cũng kết một câu “tập thể dục, đi bộ là tốt nhất!”.

Ngày xưa người ta đâu có bàn nhiều về sức khỏe bởi … ai cũng khỏe. Muốn đi ra chợ thì phải đi bộ, muốn đi thăm một người bạn thì phải đi bộ, anh chàng nào mới có người yêu thì khỏe ghê lắm vì mỗi ngày vài bận đi ngang nhà nàng, hoặc nếu có “xe đạp ơi” thì cứ chở em bon bon vượt cầu giữa trưa nắng khỏe re… Nhưng nói tới sức khỏe bây giờ là xa xỉ, thể thao bây giờ là xa xỉ, chỉ người giàu mới chơi thể thao bởi có ai có thì giờ mà tập thể thao với thể dục. Và dường như thế kỷ 21 là thế kỷ của những người … bỏ tiền để kiếm sức khỏe. Đối với họ sức khỏe thực sự quý hơn vàng! Nhiều khi có vàng cũng không mua được sức khỏe ấy chứ! Bởi bây giờ họ đã có nhiều tiền, sắm được nhà cao cửa rộng, một buổi ăn với cao lương mỹ vị có thể lên đến hàng chục triệu đồng nào là sừng tê, mật gấu nhưng cũng chả thấy ngon. Ngon sao được khi bạn đang bị đau bao tử, huyết áp, tiểu đường… Mới đây có vị nhạc sĩ trẻ tuổi đầy tài năng đã bỏ hàng đống tiền thậm chí còn đi nước ngoài để chữa bệnh nhưng cũng đành sớm lìa xa cõi đời để lại cho người hâm mộ bao đều tiếc nuối. Nên nghĩ lại mà thấy thương những bậc hiền nhân đi trước, từ xa xưa ông bà ta luôn đặt những bài học về sức khỏe lên hàng đầu để dạy cho con cháu. Rằng phòng bệnh hơn chữa bệnh. Thế mà đôi khi lại nhận được những lời … các cụ cổ hủ chả có cập nhật kiến thức hiện đại gì cả.

Nhân nào thì quả đó! Lối sống, ăn uống và sinh hoạt lành mạnh ắt sẽ có một cơ thể khỏe mạnh. Chỉ mong mọi người hàng ngày bỏ ra một ít thời gian để lưu tâm tới sức khỏe của chính mình, cứ coi như tiền khám chữa bệnh khi đau yếu là số tiền mình đã kiếm được trong thời gian tập luyện vậy!

suckhoelavang

Thứ Sáu, 4 tháng 9, 2009

HẢI THƯỢNG LÃN ÔNG (1724 – 1791)



Hải Thượng Lãn Ông tên húy là Lê Hữu Trác tên thường là Lê Hữu Chẩn, là một đại y tôn của nước ta.

Sinh ngày 12/11/1724 năm Giáp Thìn về cuối đời Hậu Lê, ở thôn Văn Xá, làng Lưu sXá, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, tỉnh Hải Dương, (nay là thôn Thanh Xá, xã Hoàng Hữu Nam, huyện Yên Mỹ, Hải Hưng). Mất ngày rằm tháng Giêng năm Tân Hợi, niên hiệu Quang Trung thứ 4 (1791) tại xã Tình Diễm, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh.

Cha là Lê Hữu Mưu đỗ tiến siõ, làm Thượng Thư đời Lê Dụ Tôn, mẹ quê ở Bàu Thượng, làng Tình Diễm, Hương Sơn, Hà Tĩnh.

Hồi nhỏ theo cha đi học ở Thăng Long, năm 1739 cha mất, lớn lên gặp thời loạn, vua Lê hư vị, Chúa Trịnh lộng quyền, các nơi đều nổi dậy chống đối, có phen Lãn ông cũng ra cầm quân dẹp loạn, nhưng vì chán ghét cuộc chém giết tương tàn ấy, nên nhân có tin người anh ở Hương Sơn mất, ông bèn viện cớ về quê nuôi mẹ.

Nhân bị đau ốm, Lãn ông mới tìm đến vị Lương y Trần Độc ở núi Thành, xã Hương Cần, huyện Thanh Chương, Nghệ An để chữa bệnh. Trong thời gian ở đó hơn 2 năm, Lãn ông đã nghiên cứu các sách y học kinh điển nhất là bộ Phùng Thị Cẩm Nang và cùng họ Trần bàn luận về y học.

Bấy giờ có Hải Quận Công biết Lãn Ông văn võ kim toàn muốn mời ra cầm quân lần nữa, nhưng vì chán ghét chiến tranh, không ham danh lợi Lãn Ông đã cương quyết chối từ, trở về Hương Sơn nghiên cứu y học và chữa bệnh.

Năm 1760, mẹ mất, lúc đó tuy mới 35 tuổi đã nổi tiếng là danh y, ngoài việc chữa bệnh, Hải Thượng Lãn Ông đã mở lớp dạy cho đồ đệ. Suốt hai mươi mấy năm lưu tâm nghiên cứu, đem hết tài năng và tinh thần tận tụy chữa bệnh và giảng dạy.

Hải Thượng đã lĩnh hội được nguyên lý uyên thâm của Đông y, thu lượm bao kinh nghiệm phong phú về chẩn trị, đúc kết lại thành một hệ thống kết hợp chặt chẽ lý luận với thực tiễn lâm sàng trong một tác phẩm rất lớn và rất có giá trị là bộ Y Tông Tâm Lĩnh. Ngoài ra lại còn viết tập”Vệ Sinh Yếu Quyết” và một bản gọi “Nữ Công Thắng Lãm”.

Năm 1782, đời Lê Hiến Tông, Niên hiệu Cảnh Hưng thứ 43, bấy giờ đã ngoài 60 tuổi Hải Thượng bị triệu về Kinh để chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán con Chúa Trịnh Sâm.

Ở triều đình, bị các ngự y ganh tị gièm pha, mãi sau Hải Thượng mới được phép chữa nên không có kết quả. Nhân ở kinh đô một năm ông tìm mọi cách để in bộ sách của mình nhưng không thành công, lại có ý tìm lại các vị danh y tại đó để trao đổi học thuật nhưng chỉ thu lượm được một số bài thuốc kinh nghiệm hoặc gia truyền. Hải Thượng đã kể lại cuộc hành trình này ở tập Thượng Kinh Ký Sự, một tài liệu văn học có giá trị phản ánh đời sống của xã hội Việt Nam hồi đó.

Lãn Ông trở về Hương Sơn tiếp tục nghiên cứu, chữa bệnh, giảng dạy và hoàn thành bộ Y Tông Tâm Lĩnh, bộ sách Đông y lớn nhất và quí nhất ở nước ta: gồm 63 cuốn (nay chỉ còn 55 cuốn) do Vũ Xuân Hiên thu thập lại và đem in năm 1866.

Nội dung bao gồm y lí, chẩn trị, phương dược, trình bày có hệ thống, kết hợp lý luận với thực tiễn, phân tích chứng minh rõ ràng, như bàn về Thủy Hỏa thì có cuốn Huyền Tẩn Phát Vi, bàn về khí huyết có cuốn Khôn Hóa Thái Chân, trị các bệnh ngoại cảm thì có Ngoại Cảm Thông Trị, biện biệt tạp chứng thì có Bách Bệnh Cơ Yếu, chẩn đoán thì có Y Gia Quan Miện, biện luận thì có Đạo Lưu Dư Vận, vận khí có Vận Khí Bí Điển ... cho đến các loại phụ khoa (Phụ Đạo Xán Nhiên), nhi khoa (Ấu Ấu Tu Tri) đều viết một cách tinh thông, giầu kinh nghiệm.

Tuy chịu ảnh hưởng của y học Trung Hoa nhất là Phùng Thị nhưng Lãn Ông đã có óc sáng tạo vận dụng y lí hợp với hoàn cảnh khí hậu và thể chất của người Việt Nam và đã sử dụng thuốc Nam để chữa bệnh, như ở các cuốn Lĩnh Nam Bản Thảo, Bách Gia Trân Tàng và Hành Giản Trân Nhu. Nhận định về Lĩnh Nam không có thương hàn, Lãn Ông đã lập ra nhiều phương thang mới ghi ở cuốn Ngoại Cảm Thông Trị. Đặc biệt trong 2 cuốn Dương Án và Âm Án, ghi lại những y án và phân tích về những bệnh đã chữa khỏi hoặc không chữa được. Cuốn Châu Ngọc Cách Ngôn để lại cho chúng ta những điều căn dặn rất bổ ích về chẩn đoán trị liệu và những sai lầm tai hại cần tránh.

Thân thế và sự nghiệp của Lãn Ông đã có một ảnh hưởng rất lớn đối với giới Đông y Việt Nam cả về mặt đạo đức và chuyên môn.

Bộ sách Hải Thượng Y Tông Tâm Lĩnh gồm 28 tập, 66 quyển, nội dung gồm:

1. Tập đầu: Có bài tựa, Phàm lệ mục lục và Y nghiệp phần chương nói về nghề y, thái độ tư cách, khái quát bộ sách và tập thơ Y Lí Thâu Nhàn.

2- Tập Nội Kinh Yếu Chỉ: nêu khái yếu về cuốn kinh điển Nội kinh.

3. Tập Y Gia Quan Miện: Khái niệm về Âm dương, Ngũ hành, quẻ số, can chi, mạch yếu.

4. Tập Y Hải Cầu Nguyên: Soạn những lời thiết yếu của các tiên hiền, chú giải kỹ để làm rõ những điều huyền bí.

5. Tập Huyền Tẫn Phát Vi: Nói rõ công dụng mở đầu của ‘Tiên thiên’, máy Âm dương, khiếu Thủy Hỏa và cách phân biệt chứng trạng, dùng thuốc.

6- Tập Khôn Hóa Thái Chân: gồm có công dụng nuôi sống của ‘Hậu thiên’ nguồn gốc của khí huyết, cách luận bệnh xử phương.

7- Tập Đạo Lưu Dự Vận: đem các ý nghĩ còn nghi hoặc, chưa rõ nghĩa trong các sách, cùng với những chỗ người xưa chưa nói đến để biện luận rõ ràng mà bổ sung vào những chỗ còn thiếu sót.

8. Tập Vận Khí Bí Điển: chọn lấy bài phú Chiêm Vận, phong giác của họ Vương và thiên Ngọc Lịch, ngũ hành, chia ra cách xem mây, xem gió, chủ vận, khách vận, chủ khí, khách khí, lập thành từng cách nghiệm đoán.

9. Tập Dược Phẩm Vậng Yếu: chọn lấy 150 vị thuốc thường dùng trong Bản thảo, chia làm 5 bộ để tiện tra khảo.

10- Tập Lĩnh Nam Bản Thảo: soạn các vị thuốc cây cỏ ở Lĩnh Nam (bao gồm Việt Nam và miền Nam Trung quốc), chia thành môn loại, chú thích tính chất, cách chữa, cách thu hái...

11- Tập Ngoại Cảm Thông Trị bàn về nước Nam ta không có bệnh thương hàn, mắc bệnh ngoại tà, đều là bệnh cảm mạo, tác giả không theo hình chứng lục kinh của Thương hàn luận nhưng Lãn Ông đã sáng chế ra 3 phương giải Biểu, 6 phương hòa Lý để chữa tất cả các bệnh ngoại cảm.

12- Tập Bách Bệnh Cơ Yếu: chọn lấy các bệnh, môn trong sách kinh điển, xét nguyên nhân, cơ chế bệnh, phân biệt chứng trạng hư thực, tiên lượng cách chữa, xử phương, dụng dược.

13. Tập Y Trung Quan Miện: soạn những điều hay mà tác giả đã lĩnh hội được ý nghĩa sâu sắc, những điểm cốt yếu.

14. Tập 'Phụ Đạo Xán Nhiên" chọn lọc trong các sách Phụ khoa những vấn đề về kinh nguyệt, đới hạ, thai, sản... lấy những điểm thiết thực cốt yếu, bỏ chỗ rườm rà… đồng thời bổ sung thêm những ý kiến của tác giả.

15. Tập "Tọa Thảo Lương Mô", tác giả thấy trong nhiều sách trước đó về Sản khoa viết rườm rà, được điều nọ, mất điều kia nên ông soạn, sắp xếp lại, bổ sung hoàn chỉnh hơn.

16. Tập Ấu Ấu Tu Tri: tác giả thấy trong nhiều sách Nhi khoa trước đó viết rời rạc, không thống nhất nên tác giả đã soạn lại, xét nguyên nhân cơ chế bệnh sinh, phân

biệt chứng trạng cách chữa, xử phương làm chỗ cốt yếu và thêm phần tâm đắc.

17. Tập 'Mộng Trung Giác Đậu: trình bày đầy đủ các kiến thức về bệnh Đậu... và bổ sung thêm kinh nghiệm đặc sắc phong phú.

18. Tập Ma Chẩn Chuẩn Thằng: soạn các phương pháp và kinh nghiệm tâm đắc trong điều trị bệnh sởi.

19. Tập 'Tâm Đắc Thần Phương: trong khi lâm lâm sàng, tác giả đã hết sức suy nghĩ chọn ra nhiều phương thuốc thần diệu trong Phùng Thị Cẩm Nang.

20. Tập "Hiệu Phỏng Tân Phương: trong khi lâm sàng tác giả đã hết sức suy nghĩ lập ra nhiều phương thuốc đáp ứng với tình thế khó khăn.

21. Tập Bách Gia Trân Tàng: tiếp thu bí phương của ông ngoại truyền lại cùng thu thập các phương thuốc quý, chữa được nhiều trường hợp khó.

22. Tập Hành Giản Trân Nhu: chọn lấy các bài thuốc có những vị thuốc Nam, thuốc Bắc thông thường, dễ kiếm, tiện dùng.

23. Tập Y Phương Hải Hội: tập hợp soạn các thang tễ, hoàn tễ trong các sách, rườm rà thì giảm đi, thiếu thì bổ sung thêm.

24. Tập Y Án, Dương Án: Tập hợp tâm đắc suy nghĩ về những trường hợp nguy nan mà chữa thành công.

25. Tập Y Án, Âm Án: tập hợp những bệnh án bệnh nặng, khó, tình thế tuyệt vọng dù cố hết sức mà không kết quả để rút kinh nghiệm.

26. Tập Truyền Tâm Bí Chỉ hoặc còn gọi là Châu Ngọc Cách Ngôn, biện luận rõ ràng đầy đủ những nghĩa lý sâu xa trong sách, những chỗ tinh hoa của y thuật.

27. Tập Vĩ. (cuối) là cuốn Thượng Kinh Ký Sự, thuật lại cuộc lên kinh thành chữøa bệnh cho Chúa Trịnh. Chỉ với giá trị sử học, văn học của cuốn ký sự này đã làm cho sự nghiệp văn hóa của Hải Thượng Lãn ông nổi danh không kém gì sự nghiệp y học của tác giả.

Về sau đă thu thập được nốt 2 cuốn là Nữ Công Thắng Lãm và Vệ Sinh Yếu Quyết.

28. Tập của Pho Sách Bách Khoa Thư về Đông y "Lãn ông tâm lĩnh" là 28 viên ngọc quý, 28 vị sao (nhị thập bát tú) của bầu trời Y học phương Đông.

Sưu tầm

Tuệ Tĩnh Thiền sư - Vị thánh thuốc nam

Tuệ Tĩnh Thiền sư, xưa nay được tôn là vị thánh thuốc nam. Theo tục truyền, ông tên thật là Nguyễn Bá Tĩnh, tự là Võ Dật, hiệu là Thận Trai, pháp hiệu là Tuệ Tĩnh, quê làng Nghĩa Phú, tổng Văn Thai, huyện Cẩm Giàng, phủ Thương Hồng, tỉnh Hải Dương.

Khẩu hiệu và chủ trương mà Tuệ Tĩnh nêu ra là thuốc nam chữa người Nam. Thông qua 2 bộ sách “Nam dược thần hiệu” và “Hồng Nghĩa giác tư y thư”.

Tuệ Tĩnh đã giới thiệu các vị thuốc nam, ca ngợi tác dụng điều trị rất hiệu quả của các vị thuốc nam (thần hiệu!). Bộ sách “Nam dược thần hiệu” này gồm 11 quyển, quyển đầu giới thiệu dược tính của 499 vị thuốc nam từ tên gọi khí vị đến chủ trị... xếp làm 22 loại dược vật như: Loại cỏ hoang, loại dây leo, loại cỏ mọc ở nước, loại ngũ cốc, rau, quả, cây, côn trùng, loại có vảy, loài cá, loài có mai, loài chim, loài gia súc, loài thú rừng, loại đất, kim loại... cho đến dược phẩm nguồn gốc từ con người như sữa, nước tiểu trẻ em, tóc, phân...

Bộ thứ hai là tên sách mà chúa Trịnh mệnh danh cho là sách thuốc của Hồng Nghĩa Đường. Bộ sách này gồm 2 quyển thượng và hạ, vừa viết bằng chữ Nôm, vừa viết bằng chữ Hán, nội dung chủ yếu gồm bài phú về thuốc nam, bài phú về dược tính bằng chữ Hán, các mục về y lý chung như: Can, chi, bát quái, tạng phủ, kinh lạc... Chủ trị của các vị thuốc, bài thuốc... thập tam phương gia giảm, ba mươi bảy phương chữa thương hàn... Cả hai bộ sách đã có ảnh hưởng rất sâu rộng trong nền y học cổ truyền dân tộc Việt Nam.

Tuệ Tĩnh Thiền sư đậu Thái học sinh đời vua Trần Dụ Tông, ông không ra làm quan mà đi tu. Ông bị bắt đi cống cho nhà Minh. Tại Trung Quốc, ông chữa khỏi bệnh sản hậu cho vương phi nhà Minh, được phong Đại y Thiền sư. Ở Đền Bia làng Văn Thái có đôi câu đối:

“Thi đậu Hoàng Giáp, tiếng lừng đất Bắc

Chữa bệnh thần diệu, tài quán Nam bang”

Tại đền thờ Tuệ Tĩnh ở làng Nghĩa Phú có đôi câu đối:

“Danh đầu Nhị Giáp nêu gương khoa bảng đời Trần

Sứ mệnh vẹn toàn trổ tài y học đất Bắc”

Hai bộ sách của Tuệ Tĩnh đã được Đại y tôn Hải Thượng Lãn Ông kế thừa và phát huy những thành tựu của bậc tiền bối. Bởi vừa mang tính chất dân tộc đại chúng, vừa mang tính chất khoa học. Do vậy, Tuệ Tĩnh Thiền sư được tôn thờ là vị thánh thuốc nam.


Sưu tầm

Thứ Hai, 31 tháng 8, 2009

ĐẠI HỌC CHI ĐẠO

ĐẠI HỌC CHI ĐẠO, TẠI MINH MINH ĐỨC

TẠI TÂN DÂN TẠI CHỈ Ư CHÍ THIỆN

Đại học lớn nhất của đời người là Đại học nhân cách, luôn làm sáng Đức của mình để cống hiến cho nhân sinh, cho sự sống một giá trị đích thực, luôn giúp dân tiến bộ trên một mục đích chí thiện. Học là tìm hiểu được cơ sở nào giúp mình mạnh nhất, trường tồn nhất, giữ thăng bằng trong cuộc sống mà cống hiến cho tổ quốc, xã hội. Học được gốc vận động ấy là ý nghĩa của việc học đích thực vậy.

Điều chân lý tưởng chừng đơn giản ấy có mấy ai trong chúng ta giác ngộ được? Ngày nay, hàng triệu sinh viên Việt Nam đang học Đại học nhưng có mấy ai hiểu rõ định hướng việc học của mình. Hay chỉ bị cuốn theo quy luật đào thải khắc nghiệt của cuộc sống, rằng phải học để có tấm bằng, học để được công việc có thể kiếm nhiều tiền hơn hay ngồi vào những vị trí ấm êm hơn. Chính vì không có định hướng đúng đắn của việc học, chính vì những đầu tư cho việc học là quá lớn lao nên thường dễ sinh ra những tinh thần bất thiện, chỉ muốn lấy lại những gì của mình, chỉ muốn thu vén cho riêng mình (vị kỷ - vì mình). Đó chính là gốc bệnh của sản phẩm giáo dục vậy.

Ngày nay, chúng ta đang phải đối mặt với nhiều sản phẩm lỗi của giáo dục: nạn tham nhũng hối lộ; nạn xin cho, chạy thành tích chỉ tiêu; nạn kê đơn thuốc giả; nạn ma túy, bạo lực học đường… Tất cả đều vận động trên một nguyên lý căn đế của việc giáo dục nhân cách. Nắm rõ được những nguyên lý vận động ấy, người làm công tác giáo dục sẽ có cơ sở để tìm ra được lời giải đáp đúng đắn cho bài toán giáo dục hiện nay, trị được tận gốc rễ sâu xa những căn bệnh ấy, định hướng sự nghiệp giáo dục Việt Nam đi đúng quỹ đạo, đưa con người tìm về sống với suối nguồn của bản chất Chân – Thiện – Mỹ.

Với truyền thống nhân văn thượng võ hàng ngàn năm của nhân dân Việt Nam, Võ thuật thời nào cũng là pháp bảo để rèn luyện tâm thân người Việt. Võ xây dựng và bảo vệ cuộc sống, Võ rèn luyện con người chánh thiện. Người tu học Chánh Võ sẽ xây dựng được cho mình một hệ thống chính khí để nuôi dưỡng thân tâm, nuôi dưỡng và phát huy lý tưởng sống cao đẹp, sống cống hiến cho quê hương, đất nước. Trong cuộc sống hiện đại Võ càng phát huy mạnh mẽ vai trò chân chính của nó. Tổ tiên người Việt Nam đã giác ngộ, xây dựng được một hệ thống khoa học vận động chân chính xây dựng cuộc sống tốt nhất mà mọi người trên thế giới đang cố tìm học. Thế giới phương Tây đã phát triển khoa học một cách tột cùng và rồi họ đang không giải đáp được mục đích sống của con người. Chính vì vậy người người đang hướng về những giá trị Chân – Thiện – Mỹ của nền minh triết phương Đông, mà trong đó Việt Nam là một tâm điểm của nền văn hóa minh triết ấy.

NHỮNG ĐIỀU CẦN BIẾT KHI TẬP LUYỆN DƯỠNG SINH KHÍ CÔNG

ĐỨC - ĐẠO - THIỀN - Y - VÕ
MÔN PHÁI
NAM HUỲNH ĐẠO
== 0 ==
NHỮNG ĐIỀU CẦN BIẾT KHI TẬP LUYỆN
DƯỠNG SINH KHÍ CÔNG

1. Thả lỏng hoàn toàn tâm thân: trong quá trình tập luyện cơ thể và tinh thần nên thả lỏng, thư giản thoải mái nhất.
2. Đối với người mới tập luyện chưa biết cách hít thở sao cho đúng nên chú ý tập trung vào tập luyện động tác cho thuần thục, hơi thở để tự nhiên không nên gồng nén hoặc bối rối sợ sai.
3. Khi hít vào thì nâng ngực, phình bụng tự nhiên và xẹp bụng khi thở ra.
4. Động tác trôi tự nhiên theo hơi thở như trong tình trạng không trọng lực, động tác chậm đều không quá nhanh hoặc quá chậm.
5. Cột sống luôn thẳng, mắt mở to nhìn thẳng một điểm cách mắt một sải tay.
6. Đối với một số người bệnh nên tập luyện vừa sức mình, không quá gắng sức hoặc thực hiện động tác quá mạnh (cẩn thận với các bệnh đau cột sống, chấn thương cột sống, đau khớp gối…).
7. Khi tập luyện nếu bị choáng như muốn té nên bình tỉnh tìm một chỗ ngồi xuống cho đến khi khỏe hẳn.





Một số hình ảnh Lớp Khí Công Dưỡng Sinh Nam Huỳnh Đạo ở Công viên Tao Đàn

Thứ Năm, 6 tháng 8, 2009

CẦN MỘT CHỮ TÂM

“Thiện căn là ở lòng ta
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”.

Chúng ta, từ lúc nhỏ đến giờ, chắc hẳn đã từng nghe ai đó bàn về Tâm. Mà khi nghe đến Tâm ta chắc hẳn đặt ra câu hỏi cho mình “Tâm” là gì? Tâm có phải là con tim không ?”. Có rất nhiều học thuyết nói về Tâm nhưng ở đây chúng ta chỉ luận bàn về chữ Tâm theo quan điểm Nhà Phật. Theo quan điểm Nhà Phật thì cho rằng khi nói đến chữ Tâm là đang nói về “Chân Tâm”. Và để đạt tới cái gọi là “Chân Tâm” ta phải bỏ đi cái phần “vọng tâm” (khởi lên những vọng niệm,a những tham lam, sân hận, si mê…).

Thật ra, bản chất của Tâm chúng ta là thanh tịnh, tự nhiên. Cái “Tâm Năng” của chúng ta có thể toả sáng giống như ánh sáng mặt trời vậy (nhà Phật gọi là Phật tánh), mỗi người chúng ta ai cũng có Phật tánh (Tâm làm chủ không bị ngoại cảnh tác động, không phân biệt, luôn sáng suốt…) nhưng do vô minh, do ham muốn, do phiền não nên chúng ta mãi trôi lăn trong sinh tử luân hồi.

Tâm của chúng ta nó chạy nhảy, rất khó đứng yên. Và để nhiếp Tâm, thu phục Tâm là một việc làm rất khó đòi hỏi một quá trình rèn luyện, tu tập nhưng không có nghĩa là chúng ta sẽ không bao giờ làm được. Nếu chúng ta quyết tâm (luôn kiên định) thì không có gì ngăn cản được chúng ta. “Tâm tích Phật lòng thành cũng Phật, Phật tích Tâm Phật ở trong lòng”.

Tại sao ta phải nên tìm hiểu về Tâm, và vai trò của “Chân Tâm”?

Sự thật thì, Tâm là căn bản của vạn năng và cũng là nguồn gốc của vạn ác, có thể đưa chúng ta đến con đường chánh đạo cũng có thể đưa chúng ta đi theo con đường tà đạo. Thánh nhân hay ma quỷ đều do Tâm mà ra.

“Tâm sanh các pháp thảy đều sanh

Tâm diệt các pháp thảy đều diệt

Muôn ngàn nghiệp chướng thảy do Tâm

Rồi cũng do Tâm mà diệt nghiệp”.

Từ xưa khi Phật còn tại thế thì Phật đã từng nói:thế giới mà chúng ta đang sống có 5 thứ ác trược, đó là: (1) kiếp trược (kiếp bệnh, dịch, đói kém, đao binh), (2)phiền não trược (không được an vui,luôn lo lắng,phiền não), (3)mạng trược (thọ mạng ngắn ngủi), (4) kiến trược (chê bai không tin chánh pháp),(5) chúng sanh trược (con người không có đức hạnh).nên việc luôn rèn luyện tâm hướng đến cái chân-thiện –mỹ là yêu cầu cấp thiết.

Trong nhịp sống hối hả như hiện nay, việc giữ Tâm luôn tĩnh lặng, sáng suốt, an lạc là một việc làm rất khó. Bởi vì, chúng ta đang sống đang tương tác với xã hội này, mà xã hội thì luôn luôn vận động và lôi cuốn con người vào guồng máy vật chất. Mọi chuyện dù lớn hay nhỏ đều tác động ít hay nhiều đến với chúng ta. Có đôi lúc chúng ta cảm thấy mệt mỏi và khi hoàn cảnh đưa đẩy ta bàng hoàng nhận ra,hình như mình đã không còn là mình và mọi chuyện đang không nằm trong tầm kiểm soát của mình nữa. Những lúc ấy nếu không vững tâm thì thật là tai hại. Ta sẽ có những sai lầm, mà thời gian thì không bao giờ trở lại để sửa những sai lầm.

Vậy chúng ta cần phải làm gì để giữ cho Tâm mình trở về với Phật tánh của mình?

Con đường chấm dứt khồ đau không đâu xa. Đó chính là tìm về với Phật tánh của mình. Đó là con đường tu giới,định,tuệ. Con đường tu tập theo chánh pháp,chọn pháp môn phù hợp và :

“ Dứt ác làm lành giữ tâm hồn cho trong sạch đó chính là Phật Pháp”.

Từ trái tim tôi muốn gừi đến các bạn hãy luôn là mình bạn nhé.Và hãy tìm ra Phật Tánh của mình. Trước những khó khăn,thử thách của cuộc đời này chúng ta hãy mạnh mẽ lên,luôn giữ cho Tâm mình luôn an lạc,thanh tịnh,dứt trừ phiền não. Và hãy luôn tha thứ cho người khác để chúng ta luôn cảm thấy thanh thản và nhẹ nhàng.

“Còn gặp nhau thì hãy cứ vui

Chuyện đời như nước chảy hoa trôi

Lợi danh như bóng mây chìm nổi

Chỉ có tình thương để lại đời”.

Và chúng ta hãy là một viên đá nhỏ,trong vô số viên đá khác, để chung góp xây đạo Từ Bi; sẽ là một tia sáng nhỏ trong vô số tia sáng khác, để cùng nhau nêu cao lời Phật dạy, để đem lại hạnh phúc và giác ngộ cùng khắp cho tất cả mọi loài.

Nguồn Kinh điển Phật pháp

Luận về chữ Tâm - Giải pháp nào cho đạo đức xã hội?

Đọc bài "Dạy và cấp bằng chữ “Tâm”, tại sao không?" của tác giả Hoài Phương trên Diễn đàn Dân trí ngày 28/1/2008, chúng tôi vẫn còn một số băn khoăn, xin được trao đổi qua một bài viết nhỏ này.
Những đôi trai gái yêu nhau thường nói “dâng hiến trái tim”, “đường vào trái tim”… Hạt nhân của chữ Tâm là tình cảm thương yêu, trân trọng con người, vạn vật, là khát vọng đem lại hạnh phúc cho con người, xây đắp một cuộc sống tốt đẹp. Chữ Tâm là gốc của đạo đức, đạo lí làm người, điều này được thể hiện rất rõ trong các kết hợp ngôn ngữ phổ biến: tâm đức, nhân tâm, tâm huyết, nhiệt tâm, thành tâm, thiện tâm, công tâm, nhất tâm, hằng tâm…

Chữ Tâm là một phạm trù cơ bản trong đạo lí truyền thống của dân tộc. Tâm qua cách viết tượng hình được các cụ giảng là những giọt máu đỏ thắm trong trái tim nóng hổi. Nếu như não được coi là xuất phát điểm của trí tuệ (Trí) thì trái tim được coi là trung khu của tình cảm, tâm lí.

Người Việt cũng nói: tà tâm, lãnh tâm, ác tâm, nhị tâm…để chỉ những kẻ độc ác, vô cảm, phản trắc. Xã hội nào cũng đề cao chữ Tâm, đề cao đạo đức, bởi vì chữ Tâm, đạo đức là gốc của sự hài hoà, vững bền, phát triển. Những danh nhân được tôn vinh đều là những người có tâm trong sáng, cao cả.

Việt Nam có ba danh nhân thế giới đều gặp nhau ở lòng nhân ái bao la, sâu thẳm: Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Chí Minh. Các tôn giáo cũng đều đề cao chữ Tâm, lòng nhân ái: Đạo Thiên Chúa đề cao lòng nhân ái, đạo Phật đề cao phẩm chất từ bi, hỉ xả và đạo Nho cũng coi nhân nghĩa là hạt nhân tư tưởng của mình.

Khi nói về chữ Tâm, nhiều người thường tách bạch “Tâm” và “Trí”. Thực ra trong mỗi người, Tâm và Trí là một sự thống nhất hài hoà không thể tách rời “tuy hai mà một”, đều là hoạt động tâm lí và có vai trò điều khiển hành động. Nếu như có mối quan hệ “Tâm-Trí” thì Trí tuệ là gốc chứ không phải Tâm là gốc như nhiều người ngộ nhận. Nếu người ta không nhìn thấy nhau, không hiểu nhau thì làm sao yêu nhau được? Nhận xét một người “có trí tuệ nhưng không có tâm” rõ ràng không thoả đáng, phải nói là người đó có vấn đề về trí tuệ thì mới đúng: tất cả những ai không có Tâm đều không có trí. Đạo Phật có khái niệm “giác ngộ” và gốc của giác ngộ là trí tuệ: những kẻ tàn ác, vô cảm, bất nhân dù tài giỏi đến mấy cũng là bất trí, u mê. Đó là minh triết của nhân loại đã được thừa nhận.

Một ngộ nhận nữa là khi nói về chữ Tâm, người ta thường nhấn mạnh ở khía cạnh “thương”, “yêu thương”, “cảm thương” mà coi nhẹ, bỏ qua yếu tố “ghét”, “căm ghét”, “phẫn nộ”.... Người không ghét cái xấu, không căm thù cái bất nhân thì sao có thể gọi là có Tâm được? Một nhà thơ nổi tiếng đã viết : “Bởi chưng hay ghét cũng là hay thương”.

Trước sự suy thoái về đạo đức xã hội, nói như tác giả Hoài Phương là chữ Tâm “có vấn đề”, nhiều người đã đưa ra những giải pháp khác nhau. Việc đưa nội dung giáo dục chữ Tâm vào chương trình giáo dục, rồi cấp bằng chữ Tâm… xem ra chỉ là ảo tưởng.

Nhiều người hễ thấy xã hội có những biểu hiện tiêu cực gì là nghĩ ngay đến việc đưa nội dung ấy vào nhà trường. Nếu cứ đà này, chương trình giáo dục phổ thông sẽ trở nên quá nặng nề đến mức phải kéo dài thời gian học lên gấp đôi, gấp ba cũng chưa xong và không có một sự đảm bảo nào về mặt hiệu quả. Đó chẳng qua là một biểu hiện của sự bế tắc.

Nhà trường chỉ là một phần của xã hội, việc học ở trường chỉ trang bị được những kiến thức cơ bản có tính định hướng, chủ yếu là người ta học và trưởng thành từ “trường đời”. Sự đánh giá về hạnh kiểm đối với học sinh được phản ánh thông qua những nhận xét trong học bạ chỉ là một kết quả từ góc nhìn ở các mối quan hệ trong nhà trường, nên không thể đầy đủ và chính xác.

Một nhà triết học nổi tiếng đã viết: “Bản chất của con người là sự tổng hoà các mối quan hệ xã hội”. Thước đo đạo đức, chữ Tâm của con người phải xét từ mọi mối quan hệ xã hội mà con người tham gia. Vì vậy, muốn đánh giá, điều chỉnh về mặt đạo đức của con người, phải bắt nguồn từ các mối quan hệ xã hội, qui luật của cuộc sống chứ không phải từ nhà trường.

Có nhiều cách để điều chỉnh hành vi đạo đức của con người (xây dựng chữ Tâm): như nêu gương, tuyên truyền vận động, thuyết phục, giải thích, tạo dư luận ủng hộ cái tốt, phê phán cái xấu….Những việc ấy là rất cần thiết và đáng quí nhưng quan trọng và có tính quyết định nhất là điều chỉnh bằng pháp luật. Xin đừng nghĩ pháp luật là một cái gì đó lạnh lùng, cứng rắn hay “vô tình”.

Bản chất của pháp luật là một khế ước xã hội, được xây dựng trên cơ sở những nguyên tắc đạo đức, pháp lí phổ biến nhằm đảm bảo cho một xã hội công bằng, ổn định, bền vững. Pháp luật qui định những hành vi không được làm và những hình phạt tương ứng đã được xã hội thừa nhận và phổ biến rộng rãi, nhằm ngăn chặn, triệt tiêu những hành vi phương hại đến con người, đến cộng đồng.

Hệ thống qui phạm pháp luật cũng không phải là một cái “khuôn” cứng nhắc, cố định mà luôn được điều chỉnh cho phù hợp với thực tiễn. Như vậy, cái gốc của pháp luật là tình người, là cái Tâm, là đạo lí, nhân nghĩa. Cho nên, một khi xã hội có vấn đề về chữ Tâm, cái cần xem xét đầu tiên là hệ thống các qui phạm pháp luật và các cơ quan, nhân viên hành pháp. Xin nêu một ví dụ: ở Singapore, ý thức giữ gìn vệ sinh công cộng rất cao, đường phố sạch tinh, không ai vô ý xả rác, vứt tàn thuốc lá…bởi vì họ đã qui định rất rõ những hình thức trừng phạt nghiêm khắc với bất kì ai có những hành vi làm tổn hại đến môi trường, vệ sinh.

Bài học chống tham nhũng thành công của Singapore do ông Lý Quang Diệu đề ra cũng rất đáng suy ngẫm: tăng lương công chức, cải tổ bộ máy hành pháp, trừng phạt nghiêm khắc, công bằng đối với mọi hành vi tham nhũng chứ không phải là đưa nội dung chống tham nhũng vào nhà trường từ bậc tiểu học hay đi nói với những “quan tham” rằng: tham nhũng là xấu, là “phi đạo đức”. Pháp luật chính là nền tảng quan trọng nhất để xây dựng đạo đức xã hội, là miếng đất ươm mầm cho cái cây đạo đức đơm hoa kết trái.

Người Việt vốn duy tình, trọng tình, trọng trực quan nên không tránh khỏi những ngộ nhận. Nhiều người rất ca ngợi việc một doanh nghiệp bỏ ra hàng trăm triệu đồng để làm từ thiện, nhưng lại bỏ qua những yếu tố khác như : doanh thu, tình trạng đóng thuế, giá cả, chất lượng các sản phẩm của công ty đó, rồi công ty đó có gây ô nhiễm môi trường hay không, mục đích thực sự của việc từ thiện ấy… Đây là một cản trở rất lớn cho quá trình xây dựng nền pháp chế.

Trước khẩu hiệu “Sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật” của nước ta, một người nước ngoài ngạc nhiên: Tại sao lại thế? Phải coi pháp luật như không khí để thở thì mới đúng. Lại vòng về vấn đề ý thức của người dân, vấn đề nâng cao nhận thức của người dân về pháp luật, nâng cao dân trí. Đó là con đường đúng đắn để ổn định và phát triển đất nước. Thực tiễn hàng ngàn năm của lịch sử nhân loại đã cho thấy: quốc gia nào pháp luật được tôn trọng thì thịnh, quốc gia nào pháp luật bị khinh nhờn thì tất suy.

Trần Quang Đại quangdaiht@gmail.com


Trường THPT Trần Phú, Đức Thọ, Hà Tĩnh.


LTS Dân trí - Qua ba bài viết tham gia ý kiến về chủ đề “chữ Tâm”, tuy rằng cách hiểu, cách đặt vấn đề vẫn còn những điểm khác nhau, nhưng có thể nhất trí về cơ bản: coi “chữ Tâm” là gốc của đạo đức, đạo lý làm người.

Chữ Tâm không phải là một khái niệm trừu tượng chỉ để tôn thờ, mà nó hiện diện ở tấm lòng tốt của mỗi người và được thể hiện ở hành động, ở tinh thần trách nhiệm đối với công việc, ở cách xử sự giầu lòng nhân ái, ở thái độ bất bình trước những thói hư, tật xấu, luôn đứng về phía chân lí.

Một người biết coi trọng lẽ sống, có nhân cách, có đạo đức tốt cũng là người có chữ Tâm. Điều ấy cho thấy chữ Tâm không tự nhiên mà có trong mỗi con người, mà đó là kết quả của quá trình giáo dục và tự giáo dục, quá trình tu dưỡng rèn luyện của mỗi người. Môi trường giáo dục của gia đình cũng như của nhà trường và xã hội có vai trò quan trọng góp phần tạo dựng cơ sở ban đầu cho việc hình thành chữ Tâm từ tuổi ấu thơ cho mỗi con người.


Nguồn Dân trí

Vẻ đẹp huyền ảo đất Việt

Đường chân trời rực sáng khi bình minh ló dạng, trẻ thơ đùa nghịch trong ánh chiều tà... là những khoảnh khắc ấn tượng trong ngày trên khắp mọi miền của Việt Nam được các độc giả VnExpress.net chia sẻ.

Bình minh trên cánh đồng lũ. Ảnh: dntrung_66.
Cánh đồng ở Châu Đốc, An Giang, rực sáng lúc bình minh. Ảnh: Đinh Ngọc Trung.
Cháu bé nhảy xuống dòng sông ở Mỹ Tho trong ánh mặt trời đỏ rực. Ảnh: Jamie Mellor.
Trẻ em nô đùa trên triền đê làng Phú Lãng, Bắc Ninh. Ảnh: Shotgun911.
Daklak-Trần Việt Dũng
Người dân ở buôn Jun, Dak Lak, chèo thuyền về sau một ngày đánh bắt cá. Ảnh: Trần Việt Dũng.
Con thuyền cô độc trên hồ Lak khi chiều dần tắt nắng. Ảnh: Trần Việt Dũng.
Cất vó trên sông Tha La. Ảnh: Bienla.
Cất vó trên sông Tha La, Châu Đốc, An Giang, trong mùa nước nổi. Ảnh: Bienla.
Nhơn Trạch Đồng Nai-Adegsm
Đàn trâu cặm cụi trở về nhà dưới nắng chiều ở Nhơn Trạch, Đồng Nai. Ảnh: Adegsm.
Hoàng Hôn Hồ Lack- Dntrung_66
Hoàng hôn trên hồ ở Ban Mê Thuột. Ảnh: Đinh Ngọc Trung.
Cô gái H'mong mơ màng dưới ánh chiều tà. Ảnh: NaPix.
Come back. Ảnh: Adegsm.
Chim sải cánh trở về tổ. Chụp ở TPHCM. Ảnh: Adegsm.

Nguồn VnExpress

Thứ Tư, 5 tháng 8, 2009

DƯỠNG SINH KHÍ CÔNG NAM HUỲNH ĐẠO


Dưỡng sinh la nuôi dưỡng sự sống !

Con người ngay khi mới hình thành sự sống của bào thai trong bụng mẹ đã cần phải được nuôi dưỡng thật cẩn mật. Bào thai sống bằng tiên thiên khí tức mang thiên tính sinh tồn cao nhất. Đứa bé được sinh ra, theo thời gian cơ thể càng lớn lên thì càng đánh mất dần tiên thiên khí đó mà chỉ sống bằng khí hậu thiên hình thành từ ba nguồn dưỡng khí, đó là : khí trời, khí đất và khí người. Để con người có thể tồn tại được trong từng hơi thở phải nhờ nguồn dưỡng khí của trời, đó là oxi qua máu nuôi sống tất cả các tế bào trong cơ thể. Kế đến, nguồn thực dưỡng mà con người ăn vào mỗi ngày nuôi sống các bộ phận của cơ thể đều được sinh ra từ đất (khí đất). Và khí người chính là các hình thái vận động thân tâm phục vụ cho dưỡng sinh và chiến đấu sinh tồn.

Ngày nay, chất lượng cuộc sống của con người đang bị đe dọa nghiêm trọng bởi sự mất cân bằng của hệ sinh thái làm ảnh hưởng đến môi trường sống (nguồn không khí và thực dưỡng bị ô nhiễm) và sự sai lệch hệ vận động thân tâm làm con người không thể tự chủ, bị cuốn theo nhịp sống gấp của thời đại nên dễ dẫn đến bị căng thẳng, sân giận, đau bệnh do không nắm bắt được các qui luật vận động. Con người đang làm mất cân bằng ba nguồn dưỡng khí nuôi dưỡng sự sống của chính mình !

Nay, Môn phái Nam Huỳnh Đạo thông báo chính thức mở lớp dưỡng sinh khí công cho tất cả mọi người, đặc biệt là người cao tuổi và người có bệnh. Dưỡng sinh khí công Nam Huỳnh Đạo là phép vận động giúp cường kiện sức khỏe cho mọi người qua đúc kết thực tiễn lâm sàng Y Võ dưỡng sinh, nhân thể luận và khí hóa luận. Về nguồn gốc, Môn phái Nam Huỳnh Đạo được hình thành trên nền tảng công phu dòng võ gia truyền Huỳnh gia kết hợp các nguyên lý, nguyên tắc mang tính chỉ đạo của Y gia, Thái gia, Phật gia cùng với công phu bảo lưu cẩn mật những giá trị di sản quí giá của tổ tiên dân tộc Việt Nam. Hàng trăm năm qua, gia tộc họ Huỳnh đã đóng góp rất lớn vào sự nghiệp bảo vệ sức khỏe của nhân dân bằng thực chứng chữa bệnh lâm sàng Y Võ và Nam Huỳnh Đạo ngày nay đang phát huy mạnh mẽ truyền thống đó thông qua con số hàng ngàn môn sinh tập luyện thường xuyên tại các võ đường của Môn phái. Tất cả các môn sinh qua tập luyện trong môi trường Võ đạo này đều chuyển biến tích cực tâm thân, cường kiện sức khỏe một cách nhanh chóng.

Địa điểm tập luyện :

1. Công viên Kỳ Hòa, Quận 10 ( ĐT: 0937.508717)

2. Công viên Lê Thị Riêng, Quận 10 ( ĐT: 0937.508717)

3. Công viên Tao Đàn, Quận 3 ( ĐT: 0120.861.6186 hoặc 0902.614.570 )

4. Công viên 23/9, Quận 1 ( ĐT: 0938.369702)

5. Nhà thi đấu Rạch Miễu, Q.Phú Nhuận ( ĐT: 0904.100.900)

Và các nơi khác ………………………………….

VĂN HÓA VIỆT NAM – MINH TRIẾT HÒA HỢP

Vũ trụ thật huyền bí ! Càng khám phá vũ trụ, con người càng thấy mình quá bé nhỏ trong sự vĩ đại bao trùm của tạo hóa.

Với những tiến bộ vượt bậc về khoa học công nghệ, con người đã phát minh ra nhiều máy móc, phương tiện hiện đại có thể xuyên cả không gian và thời gian, đi đến những hành tinh xa xôi trong vũ trụ. Vậy mà con người vẫn không thể nào đương cự nổi sức mạnh tàn phá của một cơn sóng thần hay những đợt phun trào của một ngọn núi lửa. Con người không thể chinh phục thiên nhiên mà chỉ có thể hòa hợp để sống chung với thiên nhiên trong hòa bình!

Trong thế giới loài người trên trái đất này cũng đã có quá nhiều điều kỳ bí mà ta chưa biết hết: nhiều nhóm sắc tộc, nhiều nền văn hóa, nhiều phong tục tập quán khác nhau… mà con người trên toàn thế giới đã phải trải qua một quá trình lâu dài đấu tranh sinh tồn đúc kết nên. Một là chinh phục thiên nhiên và muôn loài, hai là thuần phục trước sức mạnh huyền bí đó.

Trong thời đại quốc tế hóa như hiện nay, con người như xích lại gần nhau hơn và luôn mong muốn cùng trao đổi, chia sẽ những nét đẹp văn hóa mang tính bản sắc riêng của từng dân tộc. Dân tộc Việt Nam chúng tôi cũng vậy, luôn sẵn sàng tiếp thu và chia sẽ những giá trị văn hóa có thể đem đến cho loài người hòa bình, chân hạnh phúc và tiến bộ.

Đất nước Việt Nam có một nền văn hiến lâu đời thể hiện bằng lịch sử chân thật hơn bốn ngàn năm. Văn hóa Việt Nam mang một bản sắc rất riêng, đó là sự hòa hợp - hòa hợp với thiên nhiên, với muôn loài và với loài người… để cùng tồn tại tốt. Môn phái Nam Huỳnh Đạo tự hào là nơi còn lưu giữ trọn vẹn những giá trị căn cơ về di sản văn hóa dân tộc Việt Nam. Nam Huỳnh Đạo lấy võ làm phương tiện cứu cánh để chuyển tải nét đẹp của văn hóa dân tộc đến với người dân Việt Nam và bạn bè quốc tế.

Đến với Nam Huỳnh Đạo là được hòa mình và khám phá những nét đẹp của văn hóa Việt Nam !

Cội nguồn hạnh phúc

Hiếm ai thấy được khuôn mặt hạnh phúc toàn vẹn. Thế nhưng ai cũng hiểu để chung sống suốt đời với một người khác giới gọi là vợ hay chồng, rất cần yêu và thấu hiểu con người đó. Không chỉ yêu đôi mắt, làn môi, mà cần cả yêu tính cách, cử chỉ và hành động. Đó là tâm hồn ở mỗi người, là vẻ riêng biệt ẩn chứa bên trong con người đó...

Chuyện ngày xưa

Thời trước, có một vị tướng tài lập được công to, vua liền mở yến tiệc khen thưởng và ban cho vị tướng đó một người thiếp xinh đẹp làm bầu bạn. Sau khi nghe lệnh ban thưởng giữa lúc tiệc vui, vị tướng tài đã xin vua cho tâu thật sự suy nghĩ của mình: “Muôn tâu bệ hạ, ân đức của người hạ vô cùng cảm kích, chỉ e thần không thể nhận được bổng lộc vua ban.” Nhà vua rất lấy làm ngạc nhiên: “Ta nghe nói ở quê ngươi có một người vợ già xấu xí nên mới ban tặng thưởng đó để làm ngươi vui. Vậy chăng hà cớ vì sao nhà ngươi lại chối từ ân đức đó?”. Vị tướng trả lời:”Vợ thần tuy nhà quê, vừa xấu vừa già, nhưng lại có một tâm hồn tuyệt đẹp. Khi hạ thần rời quê lên kinh thành dự thi, nàng đã nguyện một mình ở lại nuôi con cho hạ thần yên tâm đỗ đạt thành tài, lại gắng làm kiếm tiền cho chồng mang đi đường ăn học. Khi hạ thần nhận chiếu chỉ vua ban cầm quân ra chiến trường diệt giặc, vẫn chỉ mình vợ hạ thần nhận trọng trách vừa nuôi con vừa chăm sóc bố mẹ già của thần ở quê nhà. Công lao đó ví như trời biển, thử hỏi hạ thần làm sao đền đáp. Nếu hạ thần nghe theo nhà vua nhận bổng lộc này, coi như phụ tình người vợ ơn cao nghĩa cả, tuy già xấu nhưng lại có một tâm hồn đẹp thật hiếm ai có nổi”. Nghe đến đây nhà vua hiểu ra và hết lời khen ngợi vợ vị tướng nọ ăn ở tình nghĩa vẹn toàn, đáng để người người noi gương học tập.

Đó là một ví dụ rất điển hình để minh chứng cho thuyết yêu “tâm hồn “ ở con người. Gọi yêu “tâm hồn” cho văn vẻ, lãng mạn. Thật ra xưa kia các cụ hay cho đó là tình cảm gắn bó giữa hai tính cách con người, hay gọi là gắn bó với nhua bởi cái tính, cái nết. “Tâm hồn” mỗi người trước kia được hiểu là cái tâm, cái nết ở mỗi người, là cái cốt lõi, bản chất con người đó mà cụ Nguyễn Du đã từng phác họa vẻ đẹp tâm hồn bằng vần thơ “Mai cốt cách, tuyết tinh thần”. Tâm hồn cáo quý, khi hòa hợp với nhau sẽ nên duyên vợ chồng.

Thế nên, cho dẫu lấy được người đẹp mà không hợp không hợp nết, không đồng điệu tâm hồn và không hợp tính, hợp tình sẽ vô cùng khổ sở và bất hạnh. Cuộc sống vợ chồng sẽ luôn mâu thuẫn, lục đục.

Và chuyện ngày nay

Dường như “ tâm hồn” đã bị giới trẻ ngày nay xem nhẹ. Dưới tác dụng của các tính toán, vụ lợi, cá nhân. Dưới tác dụng của kinh tế thị trường đầy âm mưu, lợi nhuận… Dưới lối sống hiện đại đang ngày càng tiêm chích mạnh mẽ vào cách sống của giới trẻ, tư tưởng của họ cũng như quan niệm của họ về tình yêu, cuộc sống dường như có nhiều điểm khác, thậm chí khác biệt hoàn toàn với lớp thế hệ ông bà, cha mẹ, anh chị của họ. Nếu cứ chọn “ tâm hồn” mà yêu trước nhất, sau đó mới nghĩ đến hình thức và các mặt khác như những thế hệ đi trước vẫn làm thì bọn trẻ thời nay cho là “hâm “ là cổ điển, lỗi thời.

Những câu chuyện tình cảm động được xuất phát chính từ tâm hồn của các bạn trẻ, dám vượt lên những giá trị vật chất, những tiêu chuẩn bình thường nhằm định giá cho một cuộc tình, để bảo vệ cho tình yêu chân chính xuất phát từ chính trái tim và tâm hồn. Có hay không một sự định hướng? Có hay không một sự học hỏi, noi theo từ thế hệ trước? Hay đó là một sự nhìn nhận hoàn toàn tự giác, tự nguyện từ một lớp người tiên tiến, thức thời?

Để tương lai của mỗi chúng ta sẽ là hạnh phúc. Để tuổi già chúng ta sẽ được an nhàn và hưởng thụ những thành quả tốt đẹp do chính chúng ta vun trồng, không gì cấp bách và không nằm ngoài mục tiêu giáo dục tư tưởng, lối sống cho chính con, cháu, em chúng ta. Từ cách nhìn nhận đúng đắn về cuộc sống, con người, chúng sẽ có nhìn xác thực về tình yêu lứa đôi và cuộc sống vợ chồng hạnh phúc. Chúng sẽ phân biệt được rằng thế nào là tình yêu chân thực, thế nà là một cuộc tình nhuốm màu vụ lợi của những đồng tiền. Nếu chúng ta dạy cho chúng biết cách yêu chân thật, chúng sẽ biết yêu từ trái tim, từ sự rung động của tâm hồn, và đó mới chính là cội nguồn hạnh phúc, đó mới chính là tình yêu – hạnh phúc của đời người.

Đâu là chân hạnh phúc ?

Khát vọng hạnh phúc là khát vọng lớn nhất của con người. Mỗi người với suy tư và hành động mong muốn tạo cho mình cuộc sống an lành, dễ chịu theo ý thích. Do suy tư hoàn cảnh, môi trường của mỗi người khác nhau nên không ai giống ai về mục đích đạt được. Có thể hạnh phúc của kẻ ăn mày là một bữa cơm cao sang, nhưng với người giàu sang thì không phải thế.

Niềm vui của người nghiên cứu, người buôn bán, người làm việc bằng chân tay, người làm việc bằng trí não... mỗi mỗi đều mang một hình ảnh khác nhau. Tuy vậy tất cả hoàn toàn giống nhau về tính chất, đều xây dựng trên nền tảng tư duy ngã tính.

Đem vọng tâm chấp ngã kia truy tầm hạnh phúc thì không bao giờ có được hạnh phúc chân thật, nếu có chăng chỉ là sự giả tạm, tan tụ bất chợt. Vì các pháp vốn là duyên sinh, vô thường, vô ngã nhưng chúng sinh lại tham ái chấp thủ nên cố chạy theo hiện tượng giả huyễn, truy tìm hạnh phúc khắp trong ba cõi. Càng tìm cầu chúng sinh càng chịu nhiều khổ đau; càng khổ đau họ càng nỗ lực tìm kiếm, cứ mãi xoay quanh không bao giờ cùng, chẳng khác nào kẻ lữ hành khát mà uống nước biển, thì càng uống càng khát. Đức Phật với tuệ giác vô lậu đã thấy rõ chúng sinh sở dĩ khổ đau là vì tham ái (tham dục). Cho nên Ngài đã dạy chúng đệ tử: "Các dục vui ít, khổ nhiều, não nhiều, sự nguy hiểm lại càng nhiều hơn". Nhưng theo quan niệm bình thường thì họ cho rằng hạnh phúc nhất là được hưởng thụ ngũ dục lạc. Điều này chúng ta cần hiểu như thế nào? Muốn hiểu được ý nghĩa lời dạy trên, trước hết chúng ta cần tìm hiểu các dục là gì?

Dục, trước hết là sự tham lam, ham muốn được thoả mãn; là mục tiêu con người hướng đến để đạt được lòng mong cầu. "Dục" cũng còn gọi là "ái", tức là sự thèm khát. Ái có ba loại: dục ái, hữu ái và vô hữu ái. Với cách hiểu thông thường thì "dục" không ra ngoài năm loại (ngũ dục): tài, sắc, danh, thực, thuỵ.

Theo Đại kinh Khổ Uẩn giải thích Dục như sau: "Các dục là năm dục trưởng dưỡng hay năm yếu tố khiến tăng trưởng lòng ham muốn, gồm sắc đẹp, tiếng hay, hương thơm, vị ngon, cảm xúc êm dịu." Và kinh Xà dụ làm rõ thêm: "Dục ví như khúc xương, như bó đuốc, hố than hừng..., như đầu rắn..., như lò thịt..."

Định nghĩa và ẩn dụ về các Dục thì có rất nhiều nhưng chung quy đều chỉ cho sự ham muốn cần được thoả mãn gọi là "dục". Như vậy bản chất của dục là khổ hay vui? Theo quan niệm thế gian, người ta cho rằng: dục đem lại hạnh phúc khi hoàn toàn thoả mãn, và dục là khổ chỉ là lập luận của những kẻ bất hạnh luôn thất bại trên đường đời, nên cuối cùng trở thành bi quan yếm thế không dám hưởng thụ, không dám hy vọng một tia sáng nào nơi sự sống. Đây là lối nhìn phiến diện hay tiêu cực mà đức Thế Tôn đã nhận ra. Vì Ngài đã liễu tri các pháp, nên đối với các dục Ngài không phủ nhận nó, không tiêu cực đối với nó, không coi nó là kẻ thù. Ngược lại, Thế Tôn có cái nhìn đúng đắn về nó, tức Ngài cũng thấy được "vị ngọt" của các dục, thấy được sự nguy hiểm của các dục và các phương pháp để xuất ly dục. Vì vậy, Ngài đã dạy các Tỳ-kheo: "Đối với các dục, vị ngọt của các dục, sự nguy hiểm các dục và sự xuất ly các dục, chỉ có Như Lai, đệ tử của Như Lai và những ai được nghe hai vị này mới liễu tri được các vấn đề đó". Do đó, Thế Tôn định nghĩa: "Các sắc do mắt nhận thức, khả ái, khả lạc, khả hỷ, tương ưng với dục, hấp dẫn; các tiếng do tai nhận thức...; các hương do mũi nhận thức...; các vị do lưỡi nhận thức...; các xúc do thân nhận thức khả ái, khả lạc, khả hỷ, tương ứng với các dục hấp dẫn... y cứ vào năm pháp này có hỷ lạc gì khởi lên như vậy là vị ngọt của các dục". Vậy nếu hiểu biết một cách hời hợt, thiếu tư duy thì bất cứ ai cũng sẽ cho rằng dục là hạnh phúc, là lạc thú, đem lại hấp dẫn, niềm vui cho con người. Chỉ có đức Phật mới liễu tri đằng sau cái vui ấy, ngọt ngào ấy là cả một hố sâu khổ đau.

"Đoạn trường ai có qua cầu mới hay". Nên dù đức Thế Tôn dạy "dục là khổ não, là nguy hiểm", nhưng nếu ai chưa tự thân chứng nghiệm thì lời dạy đó vẫn như là một trang sách cất kỹ chưa từng được áp dụng. Thậm chí có người còn lên tiếng cho rằng, lời dạy đó không thiết thực. Vì đối với bản thân họ, dục vẫn đem lại cho họ niềm hạnh phúc. Như trong Kinh Phật có kể một câu chuyện: "Thời Phật còn tại thế, nhân một lần cùng Tôn giả A-nan đi hành hoá, trên đường đi Ngài thấy một thỏi vàng, Ngài quay lại bảo A-nan: "Này A-nan, rắn độc, nên tránh đi!" A-nan cũng nhìn và bạch Phật: "Bạch Thế Tôn, rắn độc". Rồi hai thầy trò tiếp tục đi. Sau hai thầy trò có một người nông dân đi tới nhìn thấy thỏi vàng, ngạc nhiên nghĩ: "Hai thầy trò ông Cù-đàm thật là lạ, vàng mà gọi là rắn độc". Ông đem vàng về, tậu ruộng vườn, sắm xe cộ... Ít lâu sau, nhà vua mất vàng cho lính đi điều tra, thấy ông nông dân này khi không mà giàu có, liền nghi cho ông lấy vàng của nhà vua. Rõ ràng "tình ngay lý gian". Ông bèn bị bắt giam. Lúc ngồi ở trong ngục đói rét cơ cực, ông mới nghĩ lại lời dạy của đức Phật bảo với ngài A-nan. Ông tỉnh ngộ thốt lên: "Ông cù-đàm ơi, đúng là rắn độc".

Qua câu chuyện trên chúng ta thấy rằng, nếu ai chưa thấy được "vàng" là "rắn độc" thì làm sao tin được các dục là khổ não nhiều? Vì đằng sau cái dáng vẻ ngọt ngào, hấp dẫn, thu hút thì nó đã dành sẵn cho chúng ta vô vàn nguy hiểm. "Mật ngọt" thường là "cạm bẫy" thu hút bọn ruồi, các dục đối với chúng sinh cũng lại như vậy. Thấy "ngọt" mà lao đầu vào thì sẽ bị vong thân vì nó.

Hơn thế nữa, Thế Tôn lại nhấn mạnh "các dục" không những khổ não nhiều mà sự nguy hiểm lại càng nhiều như trong Đại Kinh Khổ Uẩn dạy sự nguy hiểm các dục rất nhiều, ở đây chỉ nêu một vài trường hợp khái quát.

Vì miếng cơm manh áo, con người phải bỏ ra sức lao động, phải lao vào những hoàn cảnh nguy hiểm, đương đầu với lạnh, nóng, đói khát, bị áp bức bởi thời tiết, gió, sức nóng, mặt trời, sự xúc chạm của ruồi muỗi... đó là sự nguy hiểm do các dục đưa lại.

Người ta muốn có được tài sản nên nỗ lực tinh cần làm lụng nhưng tài sản vẫn không đến tay mình, nên sinh ra sầu muộn, than vãn...

Hoặc người ấy nhờ nỗ lực làm việc nên thu hoạch được tài sản, có tài sản rồi thì lo lắng gìn giữ, mong sao tài sản không bị mất đi. Nhưng tài sản ấy do nhiều nguyên nhân cũng mất đi. Hoặc do thiên tai, hoặc do cướp bóc... nên người ấy sinh ra buồn rầu, khóc than.

Hoặc do các dục làm nhân, do các dục làm duyên, vua chúa tranh đoạt với nhau, cha mẹ với con cái tranh nhau, anh em gây bất hoà nhau...

Hoặc do các dục làm nhân, do các dục làm duyên gây ra chém giết nhau, chiến tranh, khủng bố, tù tội, cướp đoạt, đi đến vợ người, làm mười điều ác, đến nỗi thân hoại mạng chung, người ấy bị sinh vào ác thú, đọa xứ, địa ngục...

Tất cả những điều trên đều là sự nguy hiểm của các dục não hại đến con người hoặc trong hiện tại, hoặc trong tương lai. Nhưng nguy hiểm nhất là dẫn đến sự tái sinh trong ác thú, đọa xứ.

Lời dạy trên là bài học thiết thực cho những ai có tâm tu, có chí hướng thượng. Vì đức Thế Tôn rất tế nhị, Ngài đưa ra lời dạy với mục đích chỉ rõ cho đệ tử của Ngài thấy sự tập khởi các dục, vị ngọt các dục, sự xuất ly các dục để tự mỗi người phải có thái đô sống đích thực hữu ích.

Từ đó chúng ta thấy vì sao đức Phật lại dạy lối sống trung đạo, lìa xa hai thái cực. Như vậy hưởng thụ ngũ dục có phải là hạnh phúc chân thật? Điều này chỉ đúng cho những người có ác tri kiến, họ sống cuồng say trong ngũ dục, mà quên đi hậu quả do ngũ dục đem lại.

Ngược lại, muốn có được chân hạnh phúc không còn cách nào khác là chúng ta phải có thái độ sống xa lìa ngũ dục lạc, sống thiểu dục tri túc.

Chúng ta biết rằng, động cơ đưa đến mọi tham dục phát xuất từ suy nghĩ có một "cái tôi" tồn tại nên cứ lo trưởng dưỡng "cái tôi" mà tạo ra lắm khổ đau. Những khoái cảm, những lạc thú là sản phẩm của cái "tôi", của tự ngã. Vì thế không thấy được dục lạc là bệnh khổ, là mũi tên, là thuốc độc, là cục bướu như trong kinh 42 Chương, đức Phật đã đưa ra ví dụ: đứa bé liếm đường phèn trên lưỡi dao, vì ham chút vị ngọt mà quên sự nguy hiểm của lưỡi dao. Đó là hậu quả của sự say mê cái lợi trước mắt mà quên đi cái khổ về sau.

Vì sự nguy hiểm của dục như thế, nên trong Kinh Pháp Cú, đức Phật một lần nữa khẳng định:

"Đường này đến thế gian,
Đường kia đến Niết-bàn,
Tỳ-kheo đệ tử Phật,
Phải ý thức rõ ràng".

(Kinh Pháp Cú)

"Thế gian" là con đường vui hưởng ngũ dục lạc thì sẽ dẫn đến kết quả đau khổ. Vì "vui trong dục lạc vui là khổ; khổ để tu hành khổ hoá vui". "Vui" ở đây là Niết-bàn đạt được. Người Phật tử phải ý thức rõ về điều đó để có thái độ tu tập đúng đắn.

Từ ngàn xưa, thời đức Phật còn tại thế cho đến nay, "thiểu dục tri túc" được xem như là giới căn bản của mọi giới, là tư tưởng chủ đạo của các bậc xuất gia phàm thánh. Vì đây là tư tưởng trung đạo không đưa đến cực đoan nào, kể cả mặt vật chất lẫn tinh thần. Nghe những gì cần nghe, biết những gì cần biết... Nói tóm lại, những gì cần cho cuộc sống phạm hạnh và mục đích giải thoát. Muốn vậy hành giả không thể thiếu chánh kiến – điều kiện quan trọng trong Bát chánh đạo. Cho nên thiếu chánh kiến thì người tu khó mà thành tựu con đường giải thoát, lắm lúc lại còn lạc vào con đường tà kiến. Nhìn lại cuộc sống hiện đại văn minh ngày nay, nền vật chất chúng ta vô cùng sung túc. Nếu chúng ta không có tinh thần "thiểu dục tri túc" thì sớm muộn gì chúng ta cũng rơi vào hưởng thụ và tham đắm vật chất. Càng tham đắm vật chất thì tâm hồn càng bị ô nhiễm. Ngày xưa, đức Phật, chư Tổ thanh bần mà lạc đạo. Nên công phu tu tập của quý Ngài vô cùng hanh thông.

Còn ngày nay vật chất đầy đủ như thế là chúng ta đã "thiếu may mắn", bởi không có nhiều cơ hội để cọ xát với "tam thường bất túc"; không có nhiều cơ may để trưởng dưỡng nội tâm, hạ thủ công phu ngõ hầu đạt được giác ngộ. Trong ý nghĩa "hạnh phúc chân thật" chính là "hạnh phúc giác ngộ" và chân hạnh phúc chính là giác ngộ tối thượng mà chư Phật chư Tổ đã tìm ra, vậy chúng ta nếu muốn có hạnh phúc như quý Ngài thì trước tiên chúng ta phải xây dựng chánh kiến để từ đó có thái độ yểm ly thế gian, xa lìa ngũ dục lạc, thường sống với lập trường cao quý đó là "thiểu dục tri túc" kể cả tinh thần, vật chất và mọi phương diện khác trong cuộc sống.
Dạ Chí Nhân
Theo Liễu Quán Huế

Hạnh phúc rất đơn sơ…

Buổi sáng, mở tờ báo, mọi người chưng hửng, rồi tủm tỉm cười: Việt Nam mình hạnh phúc nhất Châu Á, xếp thứ 12 trên thế giới. Trong khi đó, Singapore - một "thần tượng” của mình lâu nay lại đứng hạng bét Châu Á và hạng thứ 131 của thế giới! Mỹ còn tệ hơn, hạng 150, rồi Anh 109, Pháp 129, Nhật 95 và Đức 85... Ai đó lên tiếng bên tách cà phê sáng vỉa hè Sài Gòn, giữa những ngày bão rớt, với dồn dập những tin động đất, lũ lụt, sóng thần, núi lửa, dịch bệnh, chiến tranh...: "Chẳng lẽ rồi đây mình sẽ phải phấn đấu... để giảm dần hạnh phúc xuống cho bằng với Singapore, rồi bằng với các nước Âu Mỹ khác”?

Kết quả đó chẳng phải chuyện đùa, mà là một công trình nghiên cứu nghiêm túc của Tổ chức NEF (New Economics Foundation of Anh). Họ đưa ra khái niệm Happy Planet lndex (HPI) – chỉ số hành tinh hạnh phúc cho một thế giới toàn cầu hóa, rồi tính toán để xếp loại 178 quốc gia trên thế giới theo tình trạng "hạnh phúc" của đất nước họ. Kết quả thật bất ngờ, hạnh phúc nhất thế giới lại là cư dân của một quần đảo nhỏ bé ở Nam Thái Bình Dương, nơi tràn ngập ánh nắng mặt trời và nước biển bốn mùa xanh trong là đảo Vanuatu.

Có chút gì đó "mỉa mai" chăng? Không đâu! Các nhà nghiên cứu NEF kết luận, một quốc gia không nhất thiết phải lớn, phải có GDP GNP (tổng sản lượng quốc gia) thật cao mới là hạnh phúc, không cứ phải tiêu thụ thật nhiều mới là hạnh phúc! Hình tượng hơn, họ nói không cần phải "hủy diệt” trái đất mới đem lại hạnh phúc cho con người. Phát triển mà khai thác đến cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, tàn phá cả hành tinh xanh để thỏa mãn lòng tham không đáy của con người, thì thật là nguy hiểm!

Họ đưa ra khái niệm well-being, sự sảng khoái, hạnh phúc, trong đó hạnh phúc của mỗi cá nhân phải là trung tâm của phát triển, phải dựa vào đó để đề ra những chính sách về kinh tế, xã hội, sử dụng tài nguyên sao cho hợp lý. Mỗi quốc gia đều phải có trách nhiệm bảo vệ quả đất này. Không phải cứ ỷ giàu, phóng vệ tinh tìm kiếm các hành tinh khác để di dân, lập ấp rồi sống chết mặc bay!

Nghiên cứu của NEF cho thấy trọng vòng 50 năm qua, không hề có sự gia tăng "hạnh phúc" ở người dân Anh và Mỹ - dù GPP của họ đã tăng gấp đôi ba lần, dù mức tiêu thụ năng lượng cũng tăng gấp nhiều lần. Theo cách tính toán của NEF, nếu ai cũng tiêu thụ như người dân Anh hiện nay thì phải có đến "3,1 trái đất" mới đủ tài nguyên để cung phụng! Đức và Mỹ có tỷ lệ người dân hạnh phúc ngang bằng nhau, trong khi Mỹ sử dụng tài nguyên gấp đôi Đức, chứng tỏ Đức hiệu quả còn Mỹ phung phí. Họ khuyến cáo người Anh cần có chính sách "thông minh hơn" và "xanh hơn"! Hiện nay, Anh quốc đã đưa môn "Hạnh phúc học" vào dạy thí điểm ở một số trường học rồi. Hình như con người càng chạy đua để hưởng thụ vật chất thì càng xa rời với hạnh phúc.

Một cuộc chạy đua như vậy thì không chỉ môi trường thiên nhiên bị hủy hoại, mà tâm hồn con người cũng sẽ bị tổn thương. Thỉnh thoảng, nghe đâu đó có một người giàu sụ , bỗng một hôm nổ súng vào đầu hoặc nhảy lầu tự sát, một số không ít người đang trên đỉnh vinh quang của tiền bạc, danh vọng lại đột ngột bỏ nhà đi, tìm một nơi rừng rú ở Miến Điện, Népal, Ấn Độ, Tây Tạng để... tu!

Các nhà nghiên cứu cho rằng cách tính GDP, GNP lâu nay đã không quan tâm, không thấy hết những thứ không quy được ra tiền như rừng xanh, nước sạch, không khí trong lành của một quốc gia, không tính được cái hạnh phúc của người dân được sống dưới mái nhà êm ấm, một gia đình bền vững, một công ăn việc làm ổn định, con cái học hành, khỏe mạnh. Cũng không tính được cái sảng khoái của người công dân trong một quốc gia mà sự an ninh , an toàn công cộng được đảm bảo, các giá trị văn hóa được bảo tồn và một chính quyền trong sạch, vì dân. GDP, GNP cũng không tính đến những việc làm thiện nguyện trong cộng đồng, chăm sóc người và giúp đỡ người neo đơn, tật nguyền, những việc nội trợ, nuôi con của người phụ nữ.

Trái lại, vì chạy theo phát triển kinh tế người ta sẵn sàng phá rừng, lấp biển, làm cho đá lở đất sụt, lũ quét, sóng thần, dịch bệnh... rồi đổ thừa cho thiên tai! Một số nơi đã thấy bắt đầu chặt hết cây xanh, trồng cây nhân tạo, làm núi giả, đá giả, hang động giả, để rồi sau đó mỗi người không chỉ trùm kín mặt với khẩu trang, mà còn phải đeo lủng lắng một cái bình dưỡng khí ở bên hông. Ở Nhật ngày nay, đã có người có sáng kiến bán những bình dưỡng khí nho nhỏ như vậy cho mọi người.

Từ hơn 30 năm nay, Bhutan, một quốc gia nhỏ bé dưới chân rặng Hy Mã Lạp Sơn đã kiên trì với chính sách: không dùng GDP, GNP để đo lường sự phát triển của quốc gia như các nước khác, mà tính bằng GNH, tổng hạnh phúc quốc gia, dựa trên những tiêu chuẩn khác. Tướng chỉ là cách "chơi ngông" của một quốc gia nhỏ bé, ở nơi hẻo lánh xa xôi, không ngớ các nhà khoa học, nhân chủng học, tâm lý xã hội học trên khắp thế giới lại đặc biệt quan tâm đến điều đó. Họ đã mở nhiều hội nghị quốc tế tại Mông Cổ, Hà Lan, Thái Lan... và mới nhất là tại Yokohama, Nhật Bản, từ ngày 8/11/2006 và sắp tới đây từ 22 – 28/10/2007 tại Thái Lan để bàn về vấn đề trên.

Gần đây, các nhà khoa học còn đưa ra khái niệm GIH- Gross In-ternational Happiness, tổng hạnh phúc quốc tế trong một thế giới toàn cầu hóa để mong đem hạnh phúc đến cho tất cả mọi người.

Cho nên NEF, với khái niệm HPI chỉ số hành tinh hạnh phúc đã đo đạc "hạnh phúc" các quốc gia trên thế giới, xếp Việt Nam mình vào hạng nhật Châu Á, hạng 12 thế giới chẳng phải đã là một tín hiệu đáng mừng - khi đất nước đang bước vào vận hội mới đồng thời cũng là một cảnh báo kịp thời cho chúng ta sao?