Thứ Sáu, 11 tháng 6, 2010

Cây quạt giấy

Cây quạt giấy, một vật dụng rất đỗi quen thuộc với mỗi người Việt Nam mà có lẽ từ người giàu đến người nghèo, từ nông thôn đến thành thị ai cũng đã từng cầm qua cây quạt giấy phe phẩy để xua tan cái nóng oi bức của những ngày hè miền nhiệt đới. Trước giờ tôi cũng chỉ biết nó dùng để quạt cho mát, hay làm vật trang trí, đạo cụ tôn thêm vẽ đẹp cho các điệu múa dân gian, võ thuật… nhưng đâu ngờ qua bài học Võ Đạo hôm nay, tôi mới bậc vỡ òa rằng đằng sau hình tượng cây quạt giấy bình thường ấy lại ẩn chứa một minh triết cao vời về nền “nhân thuật” siêu việt của các bậc hiền nhân đi trước.

Đi bất kỳ nơi đâu trên đất nước Việt Nam ta cũng có thể thấy thói quen dùng cây quạt giấy của người dân. Ngày xưa người ta làm cây quạt bằng giấy - tre, bằng lát, bằng vải và gần đây nó được làm bằng các chất liệu plastic… song dù được làm bằng chất liệu gì thì công dụng chính của nó là làm mát cho cơ thể. Điều đáng nói ở đây là ta chỉ mới biết được cái dụng bên ngoài của nó là đem từng làn, từng làn hơi tới làm mát làn da bên ngoài đưa cảm giác dễ chịu nhất thời lên hệ thần kinh làm xoa dịu cái nóng khắc nghiệt từ thời tiết bên ngoài. Thật ra, ít ai có thể thấy được cái dịu dụng sâu xa bên trong là động tác của cánh tay phe phẩy cây quạt mới chính là “tuyệt chiêu làm mát” cho cuộc sống của con người thực sự trong bản chất y dưỡng sinh của nền nhân thuật Phương Đông.

Nói nhân thuật phải nói đến y thuật, nó phục vụ sự tiến bộ của loài người, đưa loài người đạt đến cứu cánh chân thiện mỹ. Trong nền y thuật Phương Đông nói chung hay y học cổ truyền Việt Nam nói riêng, người thầy thuốc thường bắt đầu qui trình khám chữa bệnh bằng cách “bắt mạch” ở cổ tay, nhờ “nghe” được mạch ở Thốn Quan Xích mà đo được huyết áp, biết được các bệnh lý của toàn bộ cơ thể. Có lạ không khi một người bị cắt đứt lìa cánh tay lại có cơ may sống sót nhiều hơn người chỉ bị cắt mạch nơi cổ tay ? Vậy chắc hẳn nơi hai sợi gân (âm dương) ở cổ tay chứa đựng những mật mã cực kỳ quan trọng trong vấn đề y dưỡng sinh của cơ thể, nó là mạch nắm giữ tính mạng của con người – mất mạch là mất mạng ! Do đó, nếu nơi cổ tay (Thốn Quan Xích) được kích thích, hoạt hóa một cách đúng đắn thì sẽ là một phương cách tuyệt vời có thể điều chỉnh khí huyết, cân bằng âm dương trong cơ thể từ đó làm cho cơ thể luôn ở trạng thái “thủy hỏa ký tế”. Cơ thể luôn ở trạng thái thủy hỏa cân bằng thì mọi tật bệnh tiêu tan, khi đó con người mới thật sự được làm mát, đó mới chính là dụng ý của sâu xa của người xưa trong thói quen phe phẩy cây quạt giấy.

Con người thường bị chi phối bởi cái hình thức bên ngoài nên ngày càng rời xa những thói quen tốt đẹp trong đời sống bình thường. Xã hội phân hóa giàu nghèo, phân biệt giai cấp chủ tớ, người giàu có xu hướng ngày càng ít cầm đến cây quạt mà chuyển dần sang người đầy tớ quạt thay cho mình. Quả nhiên ông Trời thật công bằng, người chủ thì được cái hình sung sướng được phục vụ, được quạt mát bên ngoài mà không tốn công còn người đầy tớ thì ngược lại mang cái hình cực khổ phải quạt cho người, phải phục vụ cho người nhưng lại luôn trong bản chất hưởng thụ, vì nhờ lao động mà có sức khỏe, có gì quí bằng thân mình khỏe mạnh! Rồi xã hội càng hiện đại hơn, con người càng làm “hại điện” bằng cách chế ra cái quạt điện, cái máy lạnh… để làm mát con người nhưng đâu biết đang tự đưa mình vào cái vòng lẫn quẩn làm khó chính mình, càng làm cho trái đất nóng lên từng ngày, môi trường sống ngày càng khắc nghiệt. Mặc dù có không ít lời cảnh báo từ các bác sĩ, thầy thuốc rằng dùng quạt máy, máy lạnh quá mức là không tốt cho sức khỏe nhưng người ta vẫn cứ “xài thả ga”. Nên đâu đó ta vẫn nghe mấy vụ chết người vì thổi quạt máy vào người! Cái máy lạnh thì ngày càng nhốt con người vào những “cái hộp” tách biệt với thế giới tự nhiên bên ngoài, rồi người ta dần nhận ra nó là khắc tinh của những người mắc chứng viêm xoang, chứng lạnh thấu xương sau sinh của phụ nữ… Con người làm mình ngày càng yếu hơn! Người xưa có thể sinh hơn 10 người con mà vẫn khỏe mạnh, tinh thần minh mẫn, 60-70 tuổi mà mắt vẫn sáng đến xỏ lỗ kim còn được. Người đời nay đến sinh bằng cách tự nhiên cũng sinh không được, đến 30-40 tuổi là bệnh tật liên miên, mắt mờ chân run, khi trái gió trở trời là y như rằng không thể chịu nổi, ngày nào cũng phải uống một nắm thuốc tây. Cái tuổi thọ hơn xưa mà con người đang kêu ca chẳng qua là vì con người luôn phải được nuôi lây lất bằng thuốc vậy!

Ngẫm lại việc phe phẩy cây quạt giấy, xa hơn nữa là các mẫu thức trong bài tập Dưỡng sinh khí công ta luôn thấy cái phe phẩy cổ tay, đó là các bậc hiền nhân đã đưa được cái triết lý Y dưỡng sinh vào đời sống bình thường. Tính siêu việt của Y học Phương Đông trong phòng và chữa bệnh cứu người dựa trên một triết lý của tư duy tổng hợp, đưa những giá trị cao quí vào đời sống bình thường, làm được điều bình thường đã là phi thường rồi. Bởi khi con người hòa hợp với những cái dung dị của tự nhiên, vận động đúng mới là chân lý của cuộc sống. Con người có tâm thân khỏe mạnh, hòa hợp các mối quan hệ với cộng đồng, với môi trường sống tự nhiên đó chính là đang làm mát cho chính mình, làm mát các mối quan hệ từ đó cuộc sống của loài người trở nên hoàn hảo đâu cần phải sửa trị !

Thư của cô Trương Tuyết Mai

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 01/06/2010
Gởi thầy Hiếu
Tôi tên: Trương Tuyết Mai, 52 tuổi
Đ/c C7B/ 87 Đường Phạm Hùng, Chánh Hưng, Bình Chánh
ĐT: 083.8569583 – 0919000007

Tôi xin kể sơ qua sức khỏe và sự tập luyện của tôi trước khi đến với môn Dưỡng sinh khí công của Môn phái Nam Huỳnh Đạo. Tôi ý thức được rằng con người cần có luyện tập thể dục mới có sức khỏe và tôi biết đến thể dục lúc tôi khoảng 35 tuổi : nhịp điệu, cầu lông, đi bộ, tất nhiên có tập thì đỡ hơn nhiều, nhưng rồi đến một ngày gần đây tôi không còn tập được nữa, khớp gối bị đau, cao huyết áp, mệt khi vận động nhiều, đau lưng, hở van tim nhẹ, thế là tôi ngừng tập hoàn toàn và ở nhà uống thuốc mãi như thế mà không khỏi, có dùng thuốc thì đỡ không thì đau lại ngày càng tệ hơn. Buồn quá, bạn rủ tôi đến công viên Tao Đàn tập nhịp điệu, tập được hai ngày thấy không thích hợp với môn này rồi tôi đi loanh quanh gặp lớp thầy đang dạy, tôi thấy mấy bà cụ 70 - 80 tuổi tập, tôi hỏi, họ bảo tập môn này thấy khỏe ra.

Tôi thử tập, lúc đầu thấy khó nhưng rồi sau 3 tháng thấy chân không còn đau, gối và cả lưng nữa, sức lực có phần dẻo dai hơn. Nhưng tôi còn e ngại lo lắng rằng mình vận động mạnh huyết áp có tăng, tim có hở thêm không? Và hỏi. Thầy bảo cứ tập đi tốt chứ không sao. Mỗi ngày tôi đo huyết áp thấy bình thường 12/8 lúc chưa tập có khi mang hay xách nặng huyết áp cũng bị cao dù có uống thuốc mỗi ngày, tôi tập thêm 3 tháng nữa (6 tháng) tôi tự mình kiểm chứng như một hôm tôi đi nhà bạn ở chung cư lầu 5, tôi đi lên lầu 5 mà không thấy mỏi chân hay mệt nhiều so với lúc chưa tập, bạn tôi đi không nỗi, thở không kịp, tôi thấy mừng và đi kiểm tra, siêu âm tim và thử máu tổng quát. Tất cả đều bình thường, trước tôi bị gan nhiễm mỡ, mỡ trong máu và thận có vôi, hiện tôi không còn lo ngại nữa.

Xin cảm ơn và chia sẽ niềm vui này đến với thầy và mọi người, tiếc rằng tôi tìm đến trễ nhưng cũng chưa muộn, tôi không bỏ qua một ngày tập vì nó rất quan trọng đối với sức khỏe của tôi. Và tôi nhận ra rằng trong cuộc sống con người, thành công hay thất bại đều để lại di chứng bệnh tật lúc tuổi già, không có sức khỏe tất cả không có ý nghĩa, dù nghèo khổ hay giàu có, không thể mua hay đổi được. chỉ có sức khỏe ta thấy hạnh phúc nhất…

Xin cảm ơn thầy !

Thứ Hai, 3 tháng 5, 2010

VĂN HÓA ẨM THỰC - PHÉP DƯỠNG SINH KỲ DIỆU

(Trích từ website Nam Huỳnh Đạo)

Con người được nuôi dưỡng bằng 3 gốc: dưỡng khí, vận động và ăn uống. Ẩm thực đạt đạo chính ở chỗ nắm được tính âm dương của thức ăn, thức uống, từ đó dung hợp đúng đắn tính năng ngõ hầu đáp ứng đúng mức sự dinh dưỡng và tái sinh nội lực “ Hậu thiên” của cơ thể . Mỗi tháng một đợt, môn sinh bản phái đều thực hành “qui tắc” này trong việc tổ chức “ Bữa ăn gia đình” Nam Huỳnh Ðạo.

Ẩm thực Nam Huỳnh Ðạo

Một nhân thể muốn khoẻ mạnh, dồi dào sức lực, trí tuệ thăng hoa, cần phải hội đủ ba điều cơ bản sau: môi trường làm việc, chế độ dinh dưỡng, phương pháp hàm dưỡng bản thân. Trong đó, chế độ dinh dưỡng là một trong những yếu tố quan trọng góp phần tạo nên một cơ thể cường tráng khỏe mạnh, từ đó mới có một tinh thần minh mẫn, sáng suốt trong học tập và lao động. Nói vậy không phải là chúng ta phải ăn nhiều thứ chất bổ đắt tiền là được mà cần phải có một phương pháp và chế độ thực dưỡng đúng đắn. Ðể tạo ra một bữa ăn đầy đủ về mặt dinh dưỡng, nhưng phù hợp với túi tiền mà tốt cho sức khỏe tưởng chừng đơn giản nhưng thật ra nó là cả một cơ sở khoa học rõ ràng dựa trên một nền tảng y học mà kết hợp từng loại rau củ, thịt cá để có thể hoàn chỉnh một bữa ăn đầy đủ dưỡng chất nhất cho từng người ở từng vùng khác nhau.

Môn phái Nam Huỳnh Ðạo với nền y học gia truyền đã hướng dẫn cho môn đồ một chế độ ẩm thực phù hợp để hỗ trợ cho việc rèn tập bản thân đạt kết quả cao nhất. Vào mỗi cuối tháng, Môn phái tổ chức một bữa ăn gia đình với không khí chan hòa, ấm cúng. Sư Phụ đã giải thích cặn kẽ từng loại thức ăn và sự kết hợp của chúng với nhau sao cho cơ thể hấp thụ nhanh nhất lượng dưỡng chất cần thiết. Ví dụ trong một bữa ăn, cơm là thành phần chủ yếu kèm theo các loại rau quả đơn giản như giá sống, cà chua, đậu hũ,…Cụ thể chuối sứ thì rất tốt cho cơ thể, nhằm tạo thêm năng lượng cho cơ bắp, các loại trái cây có vị chua thì cung cấp vitamin C. Về nước uống, nước chanh là tốt nhất vì giải phóng được sự mỏi cơ đồng thời giải độc vô cùng hiệu quả. Ngược lại tuyệt đối không được uống nước dừa hay sữa đậu nành ngay sau buổi tập vì tính hàn của chúng sẽ làm cơ bắp rã rời vì đang ở trạng thái nhiệt. Khổ qua hay các loại rau cải màu xanh có vị đắng lại hỗ trợ can tẩy độc cao nhất. Giá sống tốt cho thận, bí đỏ cần thiết cho trí não. Ðặc biệt môn đồ cần phải luyện cho ra “cân” trong thời gian đầu nên nước thịt bò, gân bò ( tốt nhất là gân nai) bổ cân thì rất cần thiết cho cơ thể, nhưng nếu ở hoàn cảnh không cho phép ta có thể thay thế bằng đậu phụ vẫn được. Mặt khác, chúng ta cũng cần biết rõ thuộc tính của từng loại thức ăn để kết hợp cho đúng, thí dụ tại sao khi ăn trứng vịt lộn phải ăn với muối tiêu, cá trê phải ăn kèm với rau răm,… Vì cá trê có tính hàn, còn rau răm mang tính nhiệt thì mới cân bằng âm dương cho cơ thể…Tóm lại, những loại thức ăn có vị cay thì phổi hấp thu nhanh nhất, món ăn có vị chua thì tốt cho quá trình tiêu hóa, món ăn có vị mặn thì thận chủ đạo
Cứ thế môn đồ Nam Huỳnh Ðạo dần nắm được một cách thuần phác chế độ ẩm thực tự thân và công dụng của từng loại rau quả, thịt cá mà tự điều chỉnh khẩu phần ăn sao cho phù hợp với hoàn cảnh của mình nhưng vẫn đảm bảo được tiêu chí trong ẩm thực. Ngoài ra, Sư Phụ còn truyền dạy cho một số bài thuốc cần thiết nhằm hỗ trợ cho việc tu tập nhanh chóng có kết quả hơn như lấy vỏ quả bưởi sao khô rồi nấu với nước dừa cho đến khi nước sánh lại sau đó dùng vải thưa vắt lấy nước uống, còn ruột thì ăn tươi sẽ giúp thanh cân thuận trường.

Nói chung ở môn phái Nam Huỳnh Ðạo,việc thực dưỡng bằng cách kết hợp các loại rau quả thông dụng vẫn mang lại cho môn đồ một sức khoẻ hoàn hảo để học tập và lao động.

VÕ THUẬT VỚI NGUYÊN LÝ ÂM DƯƠNG

(Trích bài viết của Sư Phụ Chưởng Môn Nam Huỳnh Đạo)

Đời sống Võ gia được qui phạm bởi hình thái vận động của Ý, Khí, Thao tác trong bản chất dưỡng sinh và chiến đấu. Yêu cầu “sống còn” của Võ thuật là phải tìm ra được nguyên lý tối ưu để kiến tạo một hệ thống cấu trúc vận động phù hợp linh giải (tổng thể và vi tế) mọi điều kiện của đời sống võ: tồn tại trong sinh tử. Hơn vài nghìn năm tích lũy, đúc kết và sáng tạo qua vận động chiến tranh, lao động thực tiễn cuộc sống, sự chuyên biệt (học thuật) của các ngành khoa học, tư tưởng, con người đã phát hiện và vận dụng tài tình một nguồn “sinh lực” mang tính nguyên lý thỏa mãn mọi “bản chất sống” của con người và thế giới khách quan, và càng linh diệu hơn ở nội dung đặc thù võ thuật đòi hỏi cao độ “trạng thái khai phóng và hợp nhất”. Nguồn sinh lực đó chính là “nguyên lý Âm Dương”.

Nguyên lý Âm Dương với bản chất là hai lực đối lập trong một thể thống nhất luôn vận hóa tiêu trưởng để “chế hóa” ra vận động, đây chính là nguồn gốc sức năng của mọi “hoạt động sống” con người và vạn vật. Một trong những lãnh vực học thuật vận dụng và khai thác uyên thâm nội lực Âm Dương này là ngành Đông Y phương Đông, thông qua mục tiêu phòng bệnh và chữa bệnh cho con người, Đông Y đã “lâm sàng” nguyên lý Âm Dương một cách hữu hiệu và thực tiễn qua hệ thống Khí quan, Huyết vận, Kinh, Mạch, Lạc và các đối tượng quan yếu liên quan đến hệ thống bản thể con người lúc yếu nhất (thọ bệnh) cũng như trạng thái khỏe mạnh (dưỡng sinh) và Võ thuật đã “khôn ngoan” đúc kết khoa học vận động này vào yêu cầu “tồn tại sinh tử” của Võ gia.

Võ giới đã khéo léo “tiêu hóa” sản phẩm mà Đông Y đã đúc kết, đồng thời nâng lên thành học thuật của riêng mình, trong các khoa Dưỡng công, Trị liệu và đặc biệt mã hóa tất cả thành quả trên qua tần suất “năng lực chiến đấu” của võ thuật.

Võ thuật ứng dụng Âm Dương thể hiện qua đạo dẫn (thao tác, cách thức): Giãn – Co, Hô – Hấp, Kích thích – Cưỡng chế, Nhịp (nhanh, chậm), Động – Tịnh, Thăng – Giáng, Khai – Hợp .v.v. để thống nhất năng lượng nội thể và ngoại giới, đồng thời “nâng cấp” khả năng chiến đấu (trình độ) thông qua sự thống nhất đó. Đặc biệt hơn Võ thuật đã thăng hoa qua bản chất Âm Dương trong cơ chế Võ thuật và Đạo học để tiến đến cảnh giới “Cân bằng và hợp nhất” của Tâm pháp . Tâm pháp Võ thuật chính là “thặng dư” của sản phẩm sức năng Âm Dương thông qua bản chất chiến đấu tồn tại của Võ thuật, Trị liệu khoa Y lý, Mệnh lý, tư tưởng Triết lý để đạt đến Chân – Thiện – Mỹ của nhân loại.

Y LÝ

(Trích bài viết của Sư Phụ Chưởng Môn Nam Huỳnh Đạo)

Y lý Đông phương đã nâng tầm nhận thức của võ thuật, trực tiếp hoàn thiện “sức năng” của con người tham gia vào đời sống võ giới, và trên hết, chính bản chất “Dưỡng sinh” của Y lý là một trong những nhân tố then chốt để Võ thuật đạt đến Võ đạo. “Nội Cảnh Đồ” là một trong những nội dung cụ thể mang tính phương tiện trong nhận thức của Võ gia trong kỹ năng “luyện khí”.

NỘI CẢNH ĐỒ

Trong miệng ta có Họng và Hầu, đều chung một cuống. Hầu ở đằng trước, chủ về hô hấp, Họng ở đằng sau, chủ về ăn uống. Khi ăn uống, thức ăn không tràn vào “Hầu” được là nhờ có “Lưỡi gà” đậy lại. Chỗ cuống họng thông với khí quản gọi là Thanh quản, nơi đây vật gì vướng vào là bị sặc.

Dưới Hầu có Phế, chủ khí, làm trách nhiệm điều hòa tiết chế. Lá phổi hình như cây dù, sắc trắng, có 6 lá, 2 lỗ, che úp lên trên các tạng, giáp gần đốt xương sống số 3, bên trong có 24 lỗ trống như tổ ong, ở dưới không có lỗ, công năng dẫn khí vào các tạng, khi thở thì xẹp, khi hít thì nay. Ta luôn luôn hít thở để gạn lọc chất thanh trọc. Phế như cái chợ, các mạch đều hội họp ở đó. Kinh này nhiều khí ít huyết, hợp với da, vinh nhuận ở lông, khai khiếu ở mũi.

Dưới Phế có tạng Tâm, là động lực của huyết dịch, là chủ tể hoạt động sự sống con người. Tâm chủ quản mắt, tinh thần ý chí, huyết mạch. Tâm là Quân chủ. Tâm quán thông với Phế. Tâm ở dưới phế quản, trên chẽn dừng ngang với đốt xương thứ 5, hợp với huyết mạch , vinh nhuận ra hình sắc, khai khiếu ở lưỡi, các tạng Can, Đảm, Tỳ vị, Đởm, Bàng quang, đều có đường dây gắn vào cạnh Tâm Bào Lạc để thông với Tâm, kinh này ít khí nhiều huyết.

Ở dưới Tâm có Tâm Bào Lạc gọi là Đản Trung, đóng vai tró Thần Sứ, giống như cái chậu để ngửa, Tâm ở vào giữa. Tâm Bào Lạc bảo vệ cho Tâm, nếu có ngoại tà thì sẽ phạm vào Bào Lạc trước, còn vào đến Tâm là chết.

Ở dưới Tâm Bào Lạc có Gan, chủ sơ tiết, điều đạt khí cơ của toàn thân , tính nó hoạt động nhiều, ít khi yên tĩnh, cơ mưu đều phát xuất từ đó. Nó ở dưới chẽn dừng ngang với dạ dày, ở vào khoảng xương sống số 9. Đường dây của nó liên hệ với Tâm Bào, là nơi Huyết Hải, thông lên mắt, bên trái có 3 lá, bên phải có 4 lá, vị trí ở phía trước có cật và mạn sườn bên trái nên tác dụng của nó về bên trái , ứng hợp với Gân, vinh nhuận ra ngoài ngón, khai khiếu ở mắt, kinh này nhiều huyết ít khí .

Chỗ lá gan ngắn có Đởm (túi mật) công năng của nó rất khác biệt so với các phủ, nên gọi là Phủ Ký Hằng, chủ yếu tàng chứa nước mát mật (là dịch thể trong sạch). Sự quyết đoán phát xuất từ đó. Mật tinh vi, sắc nước gần như vàng, không có lỗ ra vào, thấy nóng mà đắng miệng là Đởm khí trào lên, khai khiếu ở cuống họng. Kinh này có nhiều huyết ít khí.

Từ cổ họng đến Vị (dạ dày) thường gọi là cuống họng, đến cuống họng thì đến chẽn dừng, dưới chẽn dừng có Dạ dày, là chức vụ kho tàng Ngũ vị phát xuất từ đây, là nơi chứa các thức ăn uống để sinh huyết khí. Công năng làm chín nhừ thức ăn, còn gọi là bể chứa Thủy cốc. Vị chủ tiếp nhận, Tỳ chủ vận hóa, các chất tinh ba truyền vào Tiểu trường, chất cặn bã thì dồn ra Đại trường đến ruột cùng (quảng trường) tống xuất ra ngoài. Nghĩa chữ Vị là “hội họp”, có hai đường, đường trên đưa ran gang Phế hệ và cuống họng, đường dưới tiếp với Tiểu trường gọi là U môn. Vịụ chủ quản việc tiêu hóa, hấp thu, vận chuyển thức ăn, Tỳ chủ tiêu hóa thêm lần nữa sau Vị . Tỳ chung sức với Phế, Thận đảm bảo sự thăng bằng, chức năng kho tàng chứa Ý và Trí. Nó hợp với thịt, vinh nhuận ra ngoài môi, khai khiếu ở miệng, kinh này nhiều khí ít huyết .

Bên phải của Vị là Tiểu trường, có chức năng đựng thức ăn được biến hóa, tiếp tục gạn lọc, phía sau gần vào cột sống, phía trước giáp với rốn , gấp cuộn lại 16 khúc, miệng trên của Tiểu trường tức là miệng dưới của Dạ dày là U môn, miệng dưới của Tiểu trường là Lan môn, gạn lọc ra chất trong đục, thấm vào Bàng quang và cặn bãra Đại trường. Kinh này nhiều huyết ít khí.

Bên phải của Tiểu trường là Đại trường (gọi là Hồi trường) chức năng đùn đẩy biến hóa, là con đường làm thủy cốc lưu thông. Nằm bên trái rốn, quanh co, gấp xếp lại xuôi xuống, cũng có 16 khúc. Quảng trường tức chỗ Hồi trường to, áp gần cuối xương sống để tiếp thu những chất do Hồi trường dồn xuống, nơi đây bài tiết cặn bã. Trực tràng là đoạn cuối của Quảng trường, giáp Hậu môn. Kinh này nhiều huyết ít khí.

Bên trái Quảng trường là Bàng quang, công năng tích động và bài tiết, còn gọi là bọng đái,ở ngang xương sống thứ 19 và dưới quả thận, trước Đại trường. Bàng là đường thủy, Quang là chất nó đỏ trắng sáng, ở trên không có lỗ, chỉ có ở dưới. Kinh này nhiều huyết ít khí.

Chủ Nhật, 2 tháng 5, 2010

NỘI CÔNG BẢN THỂ

Xin chào các cô chú,

Ngày nào các cô chú, anh chị cũng được tập bài này, ai cũng khoe nó hay nó khỏe mà không biết diễn tả sao. Người thì làm việc nhà không còn thấy mệt, người thì lên xuống cầu thang khỏe ru, người thì dù là nữ giới cũng tự dắt xe máy, khiêng qua nhấc lại đến đàn ông cũng phải ...hết hồn... Nói chung rất nhiều ích lợi, đem lại nhiều sức khỏe hơn mong đợi nhưng chắc chắn có một số người chưa hiểu rõ cái mình đang tập là gì, tại sao mà hay thế ? Thực ra, mọi người đang được học đó là nội công. Quái lạ! lớp Dưỡng Sinh mà lại học nội công à ? Đúng vậy. Mục đích của mọi người là dưỡng sinh mà. Xin phép được giải thích một vài điểm về bài nội công số 1 mà mọi người thường tập mỗi ngày.


NỘI CÔNG BẢN THỂ

Nội công bản thể Nam Huỳnh Đạo là qui trình tích tụ nội lực mang bản chất “Dưỡng sinh chi đạo” rất cụ thể qua công pháp Đại lực kim cang pháp tức Đơn bộ nội công của Môn phái.

Suối nguồn tinh ba, sinh lực sống của con người được sinh ra bởi năm cái gốc là ngũ tạng – tim, gan, bao tử, phổi và thận trong đó thận đóng vai trò chủ soái vì nó có chức năng tàng trữ tinh. Nếu năm tạng này luôn hoạt động tốt, đúng chức năng, đúng theo qui luật vận hóa âm dương, ngũ hành thì con người sẽ có sức khỏe trường bền. Đơn bộ nội công của Nam Huỳnh Đạo chính là công pháp đã được đúc kết nhiều đời bằng lâm sàng của Y thuật và Võ học chứa những bí mật vận động thông qua hệ thống kinh mạch lạc nhằm kích hoạt, đưa ngũ tạng về trạng thái cân bằng để hoạt động tốt nhất, sinh ra tinh ba cho cơ thể từ đó làm cơ sở để hành giả luyện được “tinh hóa khí, khí hóa thần”.

Điển hình như Đơn số 1 (Càn khôn pháp) chứa đầy đủ các cấu trúc vận động (đạo dẫn) kích hoạt được sự vận hóa của ngũ tạng.

Nắm tay chặt với ngón tay cái bấm vào giữa ngón trỏ bật ra là dạng thức kích hoạt Thủ Thái Âm Phế Kinh liên tục (huyệt Thiếu Thương), ngón trỏ thể hiện Đại Tràng kinh (ruột già). Phế kinh và Đại Tràng kinh đóng vai trò một biểu một lý (âm – dương) đều thuộc Kim lực. Kích hoạt được hai đường kinh này cơ thể người tập luyện sẽ sinh được Kim lực, mọi sức mạnh có gốc từ Kim lực. Nên nắm quyền của Môn phái chứa đựng đầy đủ âm dương là vậy.

Khi nén bật 10 ngón tay cũng là một hình thức làm hoạt hóa Tâm kinh vì “thập chỉ liên tâm, tâm linh thủ xảo” – 10 ngón tay liên hệ mật thiết với tim, trái tim khỏe tự nhiên 10 ngón tay cũng được linh thông (những người có vấn đề về tim mạch thường các ngón tay không hoạt, cầm nắm không chắc chắn). Nên chỉ một cử động đơn giản như vậy cũng có thể điều trị dần các vấn đề về tim mạch của chúng ta.

Khi đẩy 2 tay xuống đóng chặt sườn, phần Hoành cách mô và huyệt Kỳ Môn được kích hoạt tức kích hoạt tạng Can (gan), tẩy rửa tạng Can. Can có chức năng tàng huyết, khử độc. Can chủ cân và vận động, là nơi tàng chứa phần hồn, tinh ba của nó biểu hiện ở móng tay, móng chân, cái nó nuôi dưỡng là cân, là nơi sinh ra khí huyết, vị của nó chua, thuộc màu xanh, thông với khí mùa xuân thuộc hành Mộc. Kích hoạt được tạng Can là gốc sinh ra Cân Kình (hay Mộc kình) cho người luyện công phu chính tông. Sử được Cân Kình thì khoa học vận động sẽ được nâng lên một đẳng cấp hoàn toàn vượt xa lối vận động làm hao tổn Kalo của cơ bắp và hệ thần kinh (lực).

Xoay vai (tay) ngược vào trong đóng chặt bao tử kích hoạt Tỳ; Nâng cánh Hạc lên kích hoạt vùng Thận; Đóng mở vai kích hoạt hai lá Phổi (Phế); Nâng hai tay lên đỉnh đầu tạo hình ngọn lửa (hỏa), khi kéo về hóp ngực (lõm sâu Huỳnh Đình – huyệt Cưu Vĩ) kích hoạt tim (Tâm)…

Trên đây chỉ nói đến một vài điểm mấu chốt của Đơn bộ nội công số 1 có công năng tác động trực tiếp đến ngũ tạng, nơi sản sinh ra tinh ba là gốc của đạo dưỡng sinh và tất nhiên trong đó đã bao gồm các nguyên lý chiến đấu sẽ trình bày sau. Ngoài ra, công pháp này cũng bao hàm triết lý thể sự liên thông giữa con người và vũ trụ quan đúng như tên gọi Càn khôn pháp (Càn là trời, khôn là đất).

Con người là một Tiểu vũ trụ tức chứa đựng những mật mã tương đồng với vạn vật trong trời đất (càn khôn – Đại vũ trụ). Cơ thể con người có 12 đường kinh tương ứng 12 canh giờ; 5 tạng tương ứng với ngũ hành kim – mộc – thủy – hỏa – thổ đại diện cho sinh lực của con người sinh hóa, tiêu trưởng cũng giống như tứ thời trong vũ trụ vậy. Nếu để ý sẽ thấy vòng tròn vận động của đơn lực này đi theo qui luật tương ứng Xuân sinh, Hạ trưởng, Thu thâu, Đông tàng. Đó là triết lý về nhân sinh quan và vũ trụ quan của đơn lực Càn khôn pháp.

Thứ Năm, 4 tháng 3, 2010

TẶNG QUÀ TẾT TẠI MÁI ẤM GA SÀI GÒN

CÁC CÔ CHÚ TRONG LỚP DƯỠNG SINH KHÍ CÔNG TAO ĐÀN ĐẾN THĂM VÀ TẶNG QUÀ TẾT CHO CÁC EM MÁI ẤM GA SÀI GÒN

Thắm thoát mà Lớp Dưỡng sinh khí công Nam Huỳnh Đạo tại công viên Tao Đàn đã hoạt động được hơn 6 tháng. Trong khoảng thời gian ấy, lớp học cũng đã tạo được một bầu không khí thật vui tươi, gây được cảm tình mạnh mẽ trong cộng đồng những người thường đến tập luyện tại Công viên bởi tính hiệu quả của nó trong việc góp phần nâng cao sinh lực sống cho mọi người.

Ngoài việc rèn luyện nâng cao sức khỏe và chăm lo cho gia đình của mỗi người, trong những ngày cận Tết bận rộn mà các cô chú cũng không quên quan tâm chia sẽ tình cảm với những mãnh đời còn khó khăn cơ nhỡ. Thật là một cái Tết đầy ý nghĩa !

Đợt Tết này, lớp học đã quyên góp được một số quần áo mới và hơn 3.000.000đ mua quà Tết và các vật dụng hàng ngày tặng cho các em gái ở Mái ấm Ga Sài Gòn.

Mái ấm Ga Sài Gòn được quản lý bởi Hội phụ nữ TP.HCM, đang nuôi dạy khoảng 25 em gái mồ côi hoặc có gia cảnh khó khăn.

Sau đây là một số hình ảnh chuyến thăm :



Lì xì cho các em

Tặng quà cho các cháu
Các cháu chúc Tết mọi người

Thứ Bảy, 6 tháng 2, 2010

Văn hóa Việt Nam thấm đẫm tinh thần thượng võ

Môn sinh Nam Huỳnh Đạo
Võ sư Huỳnh Tuấn Kiệt, chưởng môn võ phái Nam Huỳnh Đạo vốn là hậu duệ đời thứ 7 của võ tướng Nguyễn Huỳnh Đức (tên thật là Huỳnh Tường Đức). Dù mới bước qua độ tuổi tứ tuần, ông đã có gần ba mươi năm nghiên cứu võ học. Là người kế thừa và xiển dương dòng võ Huỳnh Gia nổi tiếng, Huỳnh Tuấn Kiệt có những nhận thức và kiến giải sâu sắc về tinh thần nhân văn-thượng võ của văn hóa dân tộc...

Có không ít nhà nghiên cứu văn hóa cho rằng Việt Nam có truyền thống “trọng văn khinh võ”. Ví dụ như trong dân gian có câu: “Quan văn cửu phẩm đã sang/Quan võ tứ phẩm còn mang gươm hầu” phản ánh một phần nào thực trạng đó. Ông có đồng ý với quan niệm này không?

Suốt chiều dài hơn bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt đã trải qua bao cuộc chiến khi thì chống ngoại xâm giữ gìn bờ cõi, khi thì giải phóng dân tộc khỏi ách cai trị của ngoại bang. Non sông qua bao thăng trầm còn lưu dấu biết bao võ công hiển hách, sử sách còn đó những chiến thắng oai hùng. Đấu tranh là phương thức tự vệ duy nhất của một dân tộc “đất không rộng, người không đông” khi phải đối phó với những kẻ thù lớn mạnh hơn mình cả chục lần. Nếu dân tộc ta không có một tinh thần thượng võ, và các triều đại không coi trọng nền võ bị, thì chúng ta đâu có một dải giang sơn gấm vóc như ngày hôm nay.

Vậy đâu là đặc trưng của nền võ học Việt Nam? Một môn võ thuần Việt phải có bản sắc như thế nào?

Võ sư Huỳnh Tuấn Kiệt, chưởng môn võ phái Nam Huỳnh Đạo

Muốn tìm về nguồn cội võ học dân tộc, phải xuất phát từ nền văn hóa nông nghiệp của nền văn minh lúa nước cổ xưa. Đó là nền văn hóa trọng tĩnh, trong tương quan ngũ hành nó thuộc mộc tính. Cư dân trồng lúa nước thường tính tình hiền hòa, phong tục thuần phác. Do thường xuyên quan sát trời đất, khí hậu để gieo trồng và bảo vệ mùa màng, người Việt cổ đã biết suy luận ra phạm trù âm dương, ngũ hành nhằm giải thích thế giới. Bạn có thể tham khảo “Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam” của viện sĩ Trần Ngọc Thêm. Sự cuồng nộ của thiên nhiên, sự đe dọa của thú dữ và sự xung đột giữa các bộ tộc làm con người thời cổ xưa phải tìm ra các phương pháp chiến đấu để sinh tồn. Nền văn minh rực rỡ Đông Sơn đã để lại những công cụ, vũ khí như trống đồng, rìu đồng, mũi tên đồng… đã minh chứng cho điều đó.

Xin dẫn thêm một cứ liệu trong Đại Việt sử ký toàn thư có ghi, việc Thượng hoàng Trần Nhân Tông ngự cung Trùng Quang, vua Anh Tông đến chầu. Thượng hoàng nói: Nhà ta vốn là người hạ bạc, đời đời chuộng dũng cảm, nếp nhà theo nghề võ, nên xăm rồng vào đùi để tỏ là không quên nguồn gốc. Trước đó một hoàng tộc triều Lý đã vượt biển sang Cao Ly, sát cánh cùng triều đình nước này chống quân Mông Cổ, lập nhiều chiến công hiển hách. Người đó chính là Hoa sơn tướng quân Lý Long Tường mà hậu duệ còn đến ngày hôm nay.

Như vậy trải qua các triều Đinh, Lê, Lý, Trần… vua tôi đều coi trọng việc võ. Võ công và văn trị luôn là hai mặt để trị quốc, giữ yên bờ cõi và an dân. Bản sắc của chiến trận và võ học Đại Việt đã được đúc kết thành nguyên lý: lấy đoản binh thắng trường trận, lấy yếu thắng mạnh, lấy ít địch nhiều…

Nhưng nền võ học chúng ta không có những trường phái võ thuật lớn như Thiếu Lâm, Võ Đang… của Trung Quốc hoặc tầng lớp võ sĩ đạo chuyên nghiệp như Nhật Bản.

Văn hóa phản ánh sinh hoạt, tinh thần và tư tưởng của một dân tộc. Nó chịu sự chi phối của phong tục, tập quán, địa dư và tâm thức. Truyền thống văn hóa nông nghiệp Việt Nam, trong đó văn hóa làng xã vừa gìn giữ, bảo lưu vừa câu thúc, kìm hãm sự phát triển. Võ học Việt Nam cũng không tránh khỏi quy luật đó. Tuy không có các trường phái võ thuật lớn nhưng ta vẫn có các dòng võ lưu truyền trong các dòng tộc. Việt Nam còn có những vùng đất võ rất đặc trưng như Tây Sơn-Bình Định, Tân Khánh- Bà Trà, võ Kinh ở cố đô Huế, võ Héc ở vùng Thanh Nghệ, vùng đất võ Hà Tây. Hội vật làng Sình, vật Liễu Đôi, đất vật Trà Lũ… là những bằng chứng sống động đời sống thượng võ vẫn còn đến ngày hôm nay.

Trong quá khứ khi có chiến chinh, mọi người dân đều khoác áo lính (toàn dân vi binh). Khi dẹp tan giặc thù, người lính về lũy tre làng trở lại làm anh nông dân. Một xã hội thuần nông nghiệp như vậy làm sao sản sinh ra những tầng lớp võ sĩ, hiệp sĩ chuyên nghiệp như những nước khác. Đó cũng là đặc thù của văn hóa Việt Nam.

Tinh thần thượng võ dân tộc ngày nay cần được hiểu và vận dụng như thế nào?

Ngày xưa trong các trận kháng chiến chống Nguyên, Minh, Thanh... sau khi toàn thắng ông cha ta thường vỗ về, trao trả hàng binh. Làm như thế không phải vì ta sợ kẻ địch, mà vì dân tộc ta vốn có đức hiếu sinh, luôn biết “đem đại nghĩa thắng hung tàn, lấy chí nhân thay cường bạo”. Tinh thần thượng võ dân tộc ấy làm cho kẻ thù phải tâm phục, khẩu phục.

Ngày nay tinh thần thượng võ đặt trong bối cảnh hiện đại là lấy võ thuật làm phương tiện, rèn luyện thân tâm làm cứu cánh. Sự cân bằng và hợp nhất thân tâm của các cá thể trong xã hội sẽ tạo nên sinh lực to lớn cho văn hóa dân tộc. Việt Nam nên nhanh chóng đưa giáo dục võ thuật dân tộc vào học đường và các tổ chức xã hội. Bằng con đường võ thuật, chúng ta có thể thúc đẩy việc cải thiện thể chất nòi giống, nâng cao tinh thần dân tộc…

Xin cảm ơn võ sư.

Theo Báo thanh niên thể thao