Thứ Hai, 3 tháng 5, 2010

VĂN HÓA ẨM THỰC - PHÉP DƯỠNG SINH KỲ DIỆU

(Trích từ website Nam Huỳnh Đạo)

Con người được nuôi dưỡng bằng 3 gốc: dưỡng khí, vận động và ăn uống. Ẩm thực đạt đạo chính ở chỗ nắm được tính âm dương của thức ăn, thức uống, từ đó dung hợp đúng đắn tính năng ngõ hầu đáp ứng đúng mức sự dinh dưỡng và tái sinh nội lực “ Hậu thiên” của cơ thể . Mỗi tháng một đợt, môn sinh bản phái đều thực hành “qui tắc” này trong việc tổ chức “ Bữa ăn gia đình” Nam Huỳnh Ðạo.

Ẩm thực Nam Huỳnh Ðạo

Một nhân thể muốn khoẻ mạnh, dồi dào sức lực, trí tuệ thăng hoa, cần phải hội đủ ba điều cơ bản sau: môi trường làm việc, chế độ dinh dưỡng, phương pháp hàm dưỡng bản thân. Trong đó, chế độ dinh dưỡng là một trong những yếu tố quan trọng góp phần tạo nên một cơ thể cường tráng khỏe mạnh, từ đó mới có một tinh thần minh mẫn, sáng suốt trong học tập và lao động. Nói vậy không phải là chúng ta phải ăn nhiều thứ chất bổ đắt tiền là được mà cần phải có một phương pháp và chế độ thực dưỡng đúng đắn. Ðể tạo ra một bữa ăn đầy đủ về mặt dinh dưỡng, nhưng phù hợp với túi tiền mà tốt cho sức khỏe tưởng chừng đơn giản nhưng thật ra nó là cả một cơ sở khoa học rõ ràng dựa trên một nền tảng y học mà kết hợp từng loại rau củ, thịt cá để có thể hoàn chỉnh một bữa ăn đầy đủ dưỡng chất nhất cho từng người ở từng vùng khác nhau.

Môn phái Nam Huỳnh Ðạo với nền y học gia truyền đã hướng dẫn cho môn đồ một chế độ ẩm thực phù hợp để hỗ trợ cho việc rèn tập bản thân đạt kết quả cao nhất. Vào mỗi cuối tháng, Môn phái tổ chức một bữa ăn gia đình với không khí chan hòa, ấm cúng. Sư Phụ đã giải thích cặn kẽ từng loại thức ăn và sự kết hợp của chúng với nhau sao cho cơ thể hấp thụ nhanh nhất lượng dưỡng chất cần thiết. Ví dụ trong một bữa ăn, cơm là thành phần chủ yếu kèm theo các loại rau quả đơn giản như giá sống, cà chua, đậu hũ,…Cụ thể chuối sứ thì rất tốt cho cơ thể, nhằm tạo thêm năng lượng cho cơ bắp, các loại trái cây có vị chua thì cung cấp vitamin C. Về nước uống, nước chanh là tốt nhất vì giải phóng được sự mỏi cơ đồng thời giải độc vô cùng hiệu quả. Ngược lại tuyệt đối không được uống nước dừa hay sữa đậu nành ngay sau buổi tập vì tính hàn của chúng sẽ làm cơ bắp rã rời vì đang ở trạng thái nhiệt. Khổ qua hay các loại rau cải màu xanh có vị đắng lại hỗ trợ can tẩy độc cao nhất. Giá sống tốt cho thận, bí đỏ cần thiết cho trí não. Ðặc biệt môn đồ cần phải luyện cho ra “cân” trong thời gian đầu nên nước thịt bò, gân bò ( tốt nhất là gân nai) bổ cân thì rất cần thiết cho cơ thể, nhưng nếu ở hoàn cảnh không cho phép ta có thể thay thế bằng đậu phụ vẫn được. Mặt khác, chúng ta cũng cần biết rõ thuộc tính của từng loại thức ăn để kết hợp cho đúng, thí dụ tại sao khi ăn trứng vịt lộn phải ăn với muối tiêu, cá trê phải ăn kèm với rau răm,… Vì cá trê có tính hàn, còn rau răm mang tính nhiệt thì mới cân bằng âm dương cho cơ thể…Tóm lại, những loại thức ăn có vị cay thì phổi hấp thu nhanh nhất, món ăn có vị chua thì tốt cho quá trình tiêu hóa, món ăn có vị mặn thì thận chủ đạo
Cứ thế môn đồ Nam Huỳnh Ðạo dần nắm được một cách thuần phác chế độ ẩm thực tự thân và công dụng của từng loại rau quả, thịt cá mà tự điều chỉnh khẩu phần ăn sao cho phù hợp với hoàn cảnh của mình nhưng vẫn đảm bảo được tiêu chí trong ẩm thực. Ngoài ra, Sư Phụ còn truyền dạy cho một số bài thuốc cần thiết nhằm hỗ trợ cho việc tu tập nhanh chóng có kết quả hơn như lấy vỏ quả bưởi sao khô rồi nấu với nước dừa cho đến khi nước sánh lại sau đó dùng vải thưa vắt lấy nước uống, còn ruột thì ăn tươi sẽ giúp thanh cân thuận trường.

Nói chung ở môn phái Nam Huỳnh Ðạo,việc thực dưỡng bằng cách kết hợp các loại rau quả thông dụng vẫn mang lại cho môn đồ một sức khoẻ hoàn hảo để học tập và lao động.

VÕ THUẬT VỚI NGUYÊN LÝ ÂM DƯƠNG

(Trích bài viết của Sư Phụ Chưởng Môn Nam Huỳnh Đạo)

Đời sống Võ gia được qui phạm bởi hình thái vận động của Ý, Khí, Thao tác trong bản chất dưỡng sinh và chiến đấu. Yêu cầu “sống còn” của Võ thuật là phải tìm ra được nguyên lý tối ưu để kiến tạo một hệ thống cấu trúc vận động phù hợp linh giải (tổng thể và vi tế) mọi điều kiện của đời sống võ: tồn tại trong sinh tử. Hơn vài nghìn năm tích lũy, đúc kết và sáng tạo qua vận động chiến tranh, lao động thực tiễn cuộc sống, sự chuyên biệt (học thuật) của các ngành khoa học, tư tưởng, con người đã phát hiện và vận dụng tài tình một nguồn “sinh lực” mang tính nguyên lý thỏa mãn mọi “bản chất sống” của con người và thế giới khách quan, và càng linh diệu hơn ở nội dung đặc thù võ thuật đòi hỏi cao độ “trạng thái khai phóng và hợp nhất”. Nguồn sinh lực đó chính là “nguyên lý Âm Dương”.

Nguyên lý Âm Dương với bản chất là hai lực đối lập trong một thể thống nhất luôn vận hóa tiêu trưởng để “chế hóa” ra vận động, đây chính là nguồn gốc sức năng của mọi “hoạt động sống” con người và vạn vật. Một trong những lãnh vực học thuật vận dụng và khai thác uyên thâm nội lực Âm Dương này là ngành Đông Y phương Đông, thông qua mục tiêu phòng bệnh và chữa bệnh cho con người, Đông Y đã “lâm sàng” nguyên lý Âm Dương một cách hữu hiệu và thực tiễn qua hệ thống Khí quan, Huyết vận, Kinh, Mạch, Lạc và các đối tượng quan yếu liên quan đến hệ thống bản thể con người lúc yếu nhất (thọ bệnh) cũng như trạng thái khỏe mạnh (dưỡng sinh) và Võ thuật đã “khôn ngoan” đúc kết khoa học vận động này vào yêu cầu “tồn tại sinh tử” của Võ gia.

Võ giới đã khéo léo “tiêu hóa” sản phẩm mà Đông Y đã đúc kết, đồng thời nâng lên thành học thuật của riêng mình, trong các khoa Dưỡng công, Trị liệu và đặc biệt mã hóa tất cả thành quả trên qua tần suất “năng lực chiến đấu” của võ thuật.

Võ thuật ứng dụng Âm Dương thể hiện qua đạo dẫn (thao tác, cách thức): Giãn – Co, Hô – Hấp, Kích thích – Cưỡng chế, Nhịp (nhanh, chậm), Động – Tịnh, Thăng – Giáng, Khai – Hợp .v.v. để thống nhất năng lượng nội thể và ngoại giới, đồng thời “nâng cấp” khả năng chiến đấu (trình độ) thông qua sự thống nhất đó. Đặc biệt hơn Võ thuật đã thăng hoa qua bản chất Âm Dương trong cơ chế Võ thuật và Đạo học để tiến đến cảnh giới “Cân bằng và hợp nhất” của Tâm pháp . Tâm pháp Võ thuật chính là “thặng dư” của sản phẩm sức năng Âm Dương thông qua bản chất chiến đấu tồn tại của Võ thuật, Trị liệu khoa Y lý, Mệnh lý, tư tưởng Triết lý để đạt đến Chân – Thiện – Mỹ của nhân loại.

Y LÝ

(Trích bài viết của Sư Phụ Chưởng Môn Nam Huỳnh Đạo)

Y lý Đông phương đã nâng tầm nhận thức của võ thuật, trực tiếp hoàn thiện “sức năng” của con người tham gia vào đời sống võ giới, và trên hết, chính bản chất “Dưỡng sinh” của Y lý là một trong những nhân tố then chốt để Võ thuật đạt đến Võ đạo. “Nội Cảnh Đồ” là một trong những nội dung cụ thể mang tính phương tiện trong nhận thức của Võ gia trong kỹ năng “luyện khí”.

NỘI CẢNH ĐỒ

Trong miệng ta có Họng và Hầu, đều chung một cuống. Hầu ở đằng trước, chủ về hô hấp, Họng ở đằng sau, chủ về ăn uống. Khi ăn uống, thức ăn không tràn vào “Hầu” được là nhờ có “Lưỡi gà” đậy lại. Chỗ cuống họng thông với khí quản gọi là Thanh quản, nơi đây vật gì vướng vào là bị sặc.

Dưới Hầu có Phế, chủ khí, làm trách nhiệm điều hòa tiết chế. Lá phổi hình như cây dù, sắc trắng, có 6 lá, 2 lỗ, che úp lên trên các tạng, giáp gần đốt xương sống số 3, bên trong có 24 lỗ trống như tổ ong, ở dưới không có lỗ, công năng dẫn khí vào các tạng, khi thở thì xẹp, khi hít thì nay. Ta luôn luôn hít thở để gạn lọc chất thanh trọc. Phế như cái chợ, các mạch đều hội họp ở đó. Kinh này nhiều khí ít huyết, hợp với da, vinh nhuận ở lông, khai khiếu ở mũi.

Dưới Phế có tạng Tâm, là động lực của huyết dịch, là chủ tể hoạt động sự sống con người. Tâm chủ quản mắt, tinh thần ý chí, huyết mạch. Tâm là Quân chủ. Tâm quán thông với Phế. Tâm ở dưới phế quản, trên chẽn dừng ngang với đốt xương thứ 5, hợp với huyết mạch , vinh nhuận ra hình sắc, khai khiếu ở lưỡi, các tạng Can, Đảm, Tỳ vị, Đởm, Bàng quang, đều có đường dây gắn vào cạnh Tâm Bào Lạc để thông với Tâm, kinh này ít khí nhiều huyết.

Ở dưới Tâm có Tâm Bào Lạc gọi là Đản Trung, đóng vai tró Thần Sứ, giống như cái chậu để ngửa, Tâm ở vào giữa. Tâm Bào Lạc bảo vệ cho Tâm, nếu có ngoại tà thì sẽ phạm vào Bào Lạc trước, còn vào đến Tâm là chết.

Ở dưới Tâm Bào Lạc có Gan, chủ sơ tiết, điều đạt khí cơ của toàn thân , tính nó hoạt động nhiều, ít khi yên tĩnh, cơ mưu đều phát xuất từ đó. Nó ở dưới chẽn dừng ngang với dạ dày, ở vào khoảng xương sống số 9. Đường dây của nó liên hệ với Tâm Bào, là nơi Huyết Hải, thông lên mắt, bên trái có 3 lá, bên phải có 4 lá, vị trí ở phía trước có cật và mạn sườn bên trái nên tác dụng của nó về bên trái , ứng hợp với Gân, vinh nhuận ra ngoài ngón, khai khiếu ở mắt, kinh này nhiều huyết ít khí .

Chỗ lá gan ngắn có Đởm (túi mật) công năng của nó rất khác biệt so với các phủ, nên gọi là Phủ Ký Hằng, chủ yếu tàng chứa nước mát mật (là dịch thể trong sạch). Sự quyết đoán phát xuất từ đó. Mật tinh vi, sắc nước gần như vàng, không có lỗ ra vào, thấy nóng mà đắng miệng là Đởm khí trào lên, khai khiếu ở cuống họng. Kinh này có nhiều huyết ít khí.

Từ cổ họng đến Vị (dạ dày) thường gọi là cuống họng, đến cuống họng thì đến chẽn dừng, dưới chẽn dừng có Dạ dày, là chức vụ kho tàng Ngũ vị phát xuất từ đây, là nơi chứa các thức ăn uống để sinh huyết khí. Công năng làm chín nhừ thức ăn, còn gọi là bể chứa Thủy cốc. Vị chủ tiếp nhận, Tỳ chủ vận hóa, các chất tinh ba truyền vào Tiểu trường, chất cặn bã thì dồn ra Đại trường đến ruột cùng (quảng trường) tống xuất ra ngoài. Nghĩa chữ Vị là “hội họp”, có hai đường, đường trên đưa ran gang Phế hệ và cuống họng, đường dưới tiếp với Tiểu trường gọi là U môn. Vịụ chủ quản việc tiêu hóa, hấp thu, vận chuyển thức ăn, Tỳ chủ tiêu hóa thêm lần nữa sau Vị . Tỳ chung sức với Phế, Thận đảm bảo sự thăng bằng, chức năng kho tàng chứa Ý và Trí. Nó hợp với thịt, vinh nhuận ra ngoài môi, khai khiếu ở miệng, kinh này nhiều khí ít huyết .

Bên phải của Vị là Tiểu trường, có chức năng đựng thức ăn được biến hóa, tiếp tục gạn lọc, phía sau gần vào cột sống, phía trước giáp với rốn , gấp cuộn lại 16 khúc, miệng trên của Tiểu trường tức là miệng dưới của Dạ dày là U môn, miệng dưới của Tiểu trường là Lan môn, gạn lọc ra chất trong đục, thấm vào Bàng quang và cặn bãra Đại trường. Kinh này nhiều huyết ít khí.

Bên phải của Tiểu trường là Đại trường (gọi là Hồi trường) chức năng đùn đẩy biến hóa, là con đường làm thủy cốc lưu thông. Nằm bên trái rốn, quanh co, gấp xếp lại xuôi xuống, cũng có 16 khúc. Quảng trường tức chỗ Hồi trường to, áp gần cuối xương sống để tiếp thu những chất do Hồi trường dồn xuống, nơi đây bài tiết cặn bã. Trực tràng là đoạn cuối của Quảng trường, giáp Hậu môn. Kinh này nhiều huyết ít khí.

Bên trái Quảng trường là Bàng quang, công năng tích động và bài tiết, còn gọi là bọng đái,ở ngang xương sống thứ 19 và dưới quả thận, trước Đại trường. Bàng là đường thủy, Quang là chất nó đỏ trắng sáng, ở trên không có lỗ, chỉ có ở dưới. Kinh này nhiều huyết ít khí.

Chủ Nhật, 2 tháng 5, 2010

NỘI CÔNG BẢN THỂ

Xin chào các cô chú,

Ngày nào các cô chú, anh chị cũng được tập bài này, ai cũng khoe nó hay nó khỏe mà không biết diễn tả sao. Người thì làm việc nhà không còn thấy mệt, người thì lên xuống cầu thang khỏe ru, người thì dù là nữ giới cũng tự dắt xe máy, khiêng qua nhấc lại đến đàn ông cũng phải ...hết hồn... Nói chung rất nhiều ích lợi, đem lại nhiều sức khỏe hơn mong đợi nhưng chắc chắn có một số người chưa hiểu rõ cái mình đang tập là gì, tại sao mà hay thế ? Thực ra, mọi người đang được học đó là nội công. Quái lạ! lớp Dưỡng Sinh mà lại học nội công à ? Đúng vậy. Mục đích của mọi người là dưỡng sinh mà. Xin phép được giải thích một vài điểm về bài nội công số 1 mà mọi người thường tập mỗi ngày.


NỘI CÔNG BẢN THỂ

Nội công bản thể Nam Huỳnh Đạo là qui trình tích tụ nội lực mang bản chất “Dưỡng sinh chi đạo” rất cụ thể qua công pháp Đại lực kim cang pháp tức Đơn bộ nội công của Môn phái.

Suối nguồn tinh ba, sinh lực sống của con người được sinh ra bởi năm cái gốc là ngũ tạng – tim, gan, bao tử, phổi và thận trong đó thận đóng vai trò chủ soái vì nó có chức năng tàng trữ tinh. Nếu năm tạng này luôn hoạt động tốt, đúng chức năng, đúng theo qui luật vận hóa âm dương, ngũ hành thì con người sẽ có sức khỏe trường bền. Đơn bộ nội công của Nam Huỳnh Đạo chính là công pháp đã được đúc kết nhiều đời bằng lâm sàng của Y thuật và Võ học chứa những bí mật vận động thông qua hệ thống kinh mạch lạc nhằm kích hoạt, đưa ngũ tạng về trạng thái cân bằng để hoạt động tốt nhất, sinh ra tinh ba cho cơ thể từ đó làm cơ sở để hành giả luyện được “tinh hóa khí, khí hóa thần”.

Điển hình như Đơn số 1 (Càn khôn pháp) chứa đầy đủ các cấu trúc vận động (đạo dẫn) kích hoạt được sự vận hóa của ngũ tạng.

Nắm tay chặt với ngón tay cái bấm vào giữa ngón trỏ bật ra là dạng thức kích hoạt Thủ Thái Âm Phế Kinh liên tục (huyệt Thiếu Thương), ngón trỏ thể hiện Đại Tràng kinh (ruột già). Phế kinh và Đại Tràng kinh đóng vai trò một biểu một lý (âm – dương) đều thuộc Kim lực. Kích hoạt được hai đường kinh này cơ thể người tập luyện sẽ sinh được Kim lực, mọi sức mạnh có gốc từ Kim lực. Nên nắm quyền của Môn phái chứa đựng đầy đủ âm dương là vậy.

Khi nén bật 10 ngón tay cũng là một hình thức làm hoạt hóa Tâm kinh vì “thập chỉ liên tâm, tâm linh thủ xảo” – 10 ngón tay liên hệ mật thiết với tim, trái tim khỏe tự nhiên 10 ngón tay cũng được linh thông (những người có vấn đề về tim mạch thường các ngón tay không hoạt, cầm nắm không chắc chắn). Nên chỉ một cử động đơn giản như vậy cũng có thể điều trị dần các vấn đề về tim mạch của chúng ta.

Khi đẩy 2 tay xuống đóng chặt sườn, phần Hoành cách mô và huyệt Kỳ Môn được kích hoạt tức kích hoạt tạng Can (gan), tẩy rửa tạng Can. Can có chức năng tàng huyết, khử độc. Can chủ cân và vận động, là nơi tàng chứa phần hồn, tinh ba của nó biểu hiện ở móng tay, móng chân, cái nó nuôi dưỡng là cân, là nơi sinh ra khí huyết, vị của nó chua, thuộc màu xanh, thông với khí mùa xuân thuộc hành Mộc. Kích hoạt được tạng Can là gốc sinh ra Cân Kình (hay Mộc kình) cho người luyện công phu chính tông. Sử được Cân Kình thì khoa học vận động sẽ được nâng lên một đẳng cấp hoàn toàn vượt xa lối vận động làm hao tổn Kalo của cơ bắp và hệ thần kinh (lực).

Xoay vai (tay) ngược vào trong đóng chặt bao tử kích hoạt Tỳ; Nâng cánh Hạc lên kích hoạt vùng Thận; Đóng mở vai kích hoạt hai lá Phổi (Phế); Nâng hai tay lên đỉnh đầu tạo hình ngọn lửa (hỏa), khi kéo về hóp ngực (lõm sâu Huỳnh Đình – huyệt Cưu Vĩ) kích hoạt tim (Tâm)…

Trên đây chỉ nói đến một vài điểm mấu chốt của Đơn bộ nội công số 1 có công năng tác động trực tiếp đến ngũ tạng, nơi sản sinh ra tinh ba là gốc của đạo dưỡng sinh và tất nhiên trong đó đã bao gồm các nguyên lý chiến đấu sẽ trình bày sau. Ngoài ra, công pháp này cũng bao hàm triết lý thể sự liên thông giữa con người và vũ trụ quan đúng như tên gọi Càn khôn pháp (Càn là trời, khôn là đất).

Con người là một Tiểu vũ trụ tức chứa đựng những mật mã tương đồng với vạn vật trong trời đất (càn khôn – Đại vũ trụ). Cơ thể con người có 12 đường kinh tương ứng 12 canh giờ; 5 tạng tương ứng với ngũ hành kim – mộc – thủy – hỏa – thổ đại diện cho sinh lực của con người sinh hóa, tiêu trưởng cũng giống như tứ thời trong vũ trụ vậy. Nếu để ý sẽ thấy vòng tròn vận động của đơn lực này đi theo qui luật tương ứng Xuân sinh, Hạ trưởng, Thu thâu, Đông tàng. Đó là triết lý về nhân sinh quan và vũ trụ quan của đơn lực Càn khôn pháp.