Thứ Hai, 31 tháng 8, 2009

ĐẠI HỌC CHI ĐẠO

ĐẠI HỌC CHI ĐẠO, TẠI MINH MINH ĐỨC

TẠI TÂN DÂN TẠI CHỈ Ư CHÍ THIỆN

Đại học lớn nhất của đời người là Đại học nhân cách, luôn làm sáng Đức của mình để cống hiến cho nhân sinh, cho sự sống một giá trị đích thực, luôn giúp dân tiến bộ trên một mục đích chí thiện. Học là tìm hiểu được cơ sở nào giúp mình mạnh nhất, trường tồn nhất, giữ thăng bằng trong cuộc sống mà cống hiến cho tổ quốc, xã hội. Học được gốc vận động ấy là ý nghĩa của việc học đích thực vậy.

Điều chân lý tưởng chừng đơn giản ấy có mấy ai trong chúng ta giác ngộ được? Ngày nay, hàng triệu sinh viên Việt Nam đang học Đại học nhưng có mấy ai hiểu rõ định hướng việc học của mình. Hay chỉ bị cuốn theo quy luật đào thải khắc nghiệt của cuộc sống, rằng phải học để có tấm bằng, học để được công việc có thể kiếm nhiều tiền hơn hay ngồi vào những vị trí ấm êm hơn. Chính vì không có định hướng đúng đắn của việc học, chính vì những đầu tư cho việc học là quá lớn lao nên thường dễ sinh ra những tinh thần bất thiện, chỉ muốn lấy lại những gì của mình, chỉ muốn thu vén cho riêng mình (vị kỷ - vì mình). Đó chính là gốc bệnh của sản phẩm giáo dục vậy.

Ngày nay, chúng ta đang phải đối mặt với nhiều sản phẩm lỗi của giáo dục: nạn tham nhũng hối lộ; nạn xin cho, chạy thành tích chỉ tiêu; nạn kê đơn thuốc giả; nạn ma túy, bạo lực học đường… Tất cả đều vận động trên một nguyên lý căn đế của việc giáo dục nhân cách. Nắm rõ được những nguyên lý vận động ấy, người làm công tác giáo dục sẽ có cơ sở để tìm ra được lời giải đáp đúng đắn cho bài toán giáo dục hiện nay, trị được tận gốc rễ sâu xa những căn bệnh ấy, định hướng sự nghiệp giáo dục Việt Nam đi đúng quỹ đạo, đưa con người tìm về sống với suối nguồn của bản chất Chân – Thiện – Mỹ.

Với truyền thống nhân văn thượng võ hàng ngàn năm của nhân dân Việt Nam, Võ thuật thời nào cũng là pháp bảo để rèn luyện tâm thân người Việt. Võ xây dựng và bảo vệ cuộc sống, Võ rèn luyện con người chánh thiện. Người tu học Chánh Võ sẽ xây dựng được cho mình một hệ thống chính khí để nuôi dưỡng thân tâm, nuôi dưỡng và phát huy lý tưởng sống cao đẹp, sống cống hiến cho quê hương, đất nước. Trong cuộc sống hiện đại Võ càng phát huy mạnh mẽ vai trò chân chính của nó. Tổ tiên người Việt Nam đã giác ngộ, xây dựng được một hệ thống khoa học vận động chân chính xây dựng cuộc sống tốt nhất mà mọi người trên thế giới đang cố tìm học. Thế giới phương Tây đã phát triển khoa học một cách tột cùng và rồi họ đang không giải đáp được mục đích sống của con người. Chính vì vậy người người đang hướng về những giá trị Chân – Thiện – Mỹ của nền minh triết phương Đông, mà trong đó Việt Nam là một tâm điểm của nền văn hóa minh triết ấy.

NHỮNG ĐIỀU CẦN BIẾT KHI TẬP LUYỆN DƯỠNG SINH KHÍ CÔNG

ĐỨC - ĐẠO - THIỀN - Y - VÕ
MÔN PHÁI
NAM HUỲNH ĐẠO
== 0 ==
NHỮNG ĐIỀU CẦN BIẾT KHI TẬP LUYỆN
DƯỠNG SINH KHÍ CÔNG

1. Thả lỏng hoàn toàn tâm thân: trong quá trình tập luyện cơ thể và tinh thần nên thả lỏng, thư giản thoải mái nhất.
2. Đối với người mới tập luyện chưa biết cách hít thở sao cho đúng nên chú ý tập trung vào tập luyện động tác cho thuần thục, hơi thở để tự nhiên không nên gồng nén hoặc bối rối sợ sai.
3. Khi hít vào thì nâng ngực, phình bụng tự nhiên và xẹp bụng khi thở ra.
4. Động tác trôi tự nhiên theo hơi thở như trong tình trạng không trọng lực, động tác chậm đều không quá nhanh hoặc quá chậm.
5. Cột sống luôn thẳng, mắt mở to nhìn thẳng một điểm cách mắt một sải tay.
6. Đối với một số người bệnh nên tập luyện vừa sức mình, không quá gắng sức hoặc thực hiện động tác quá mạnh (cẩn thận với các bệnh đau cột sống, chấn thương cột sống, đau khớp gối…).
7. Khi tập luyện nếu bị choáng như muốn té nên bình tỉnh tìm một chỗ ngồi xuống cho đến khi khỏe hẳn.





Một số hình ảnh Lớp Khí Công Dưỡng Sinh Nam Huỳnh Đạo ở Công viên Tao Đàn

Thứ Năm, 6 tháng 8, 2009

CẦN MỘT CHỮ TÂM

“Thiện căn là ở lòng ta
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”.

Chúng ta, từ lúc nhỏ đến giờ, chắc hẳn đã từng nghe ai đó bàn về Tâm. Mà khi nghe đến Tâm ta chắc hẳn đặt ra câu hỏi cho mình “Tâm” là gì? Tâm có phải là con tim không ?”. Có rất nhiều học thuyết nói về Tâm nhưng ở đây chúng ta chỉ luận bàn về chữ Tâm theo quan điểm Nhà Phật. Theo quan điểm Nhà Phật thì cho rằng khi nói đến chữ Tâm là đang nói về “Chân Tâm”. Và để đạt tới cái gọi là “Chân Tâm” ta phải bỏ đi cái phần “vọng tâm” (khởi lên những vọng niệm,a những tham lam, sân hận, si mê…).

Thật ra, bản chất của Tâm chúng ta là thanh tịnh, tự nhiên. Cái “Tâm Năng” của chúng ta có thể toả sáng giống như ánh sáng mặt trời vậy (nhà Phật gọi là Phật tánh), mỗi người chúng ta ai cũng có Phật tánh (Tâm làm chủ không bị ngoại cảnh tác động, không phân biệt, luôn sáng suốt…) nhưng do vô minh, do ham muốn, do phiền não nên chúng ta mãi trôi lăn trong sinh tử luân hồi.

Tâm của chúng ta nó chạy nhảy, rất khó đứng yên. Và để nhiếp Tâm, thu phục Tâm là một việc làm rất khó đòi hỏi một quá trình rèn luyện, tu tập nhưng không có nghĩa là chúng ta sẽ không bao giờ làm được. Nếu chúng ta quyết tâm (luôn kiên định) thì không có gì ngăn cản được chúng ta. “Tâm tích Phật lòng thành cũng Phật, Phật tích Tâm Phật ở trong lòng”.

Tại sao ta phải nên tìm hiểu về Tâm, và vai trò của “Chân Tâm”?

Sự thật thì, Tâm là căn bản của vạn năng và cũng là nguồn gốc của vạn ác, có thể đưa chúng ta đến con đường chánh đạo cũng có thể đưa chúng ta đi theo con đường tà đạo. Thánh nhân hay ma quỷ đều do Tâm mà ra.

“Tâm sanh các pháp thảy đều sanh

Tâm diệt các pháp thảy đều diệt

Muôn ngàn nghiệp chướng thảy do Tâm

Rồi cũng do Tâm mà diệt nghiệp”.

Từ xưa khi Phật còn tại thế thì Phật đã từng nói:thế giới mà chúng ta đang sống có 5 thứ ác trược, đó là: (1) kiếp trược (kiếp bệnh, dịch, đói kém, đao binh), (2)phiền não trược (không được an vui,luôn lo lắng,phiền não), (3)mạng trược (thọ mạng ngắn ngủi), (4) kiến trược (chê bai không tin chánh pháp),(5) chúng sanh trược (con người không có đức hạnh).nên việc luôn rèn luyện tâm hướng đến cái chân-thiện –mỹ là yêu cầu cấp thiết.

Trong nhịp sống hối hả như hiện nay, việc giữ Tâm luôn tĩnh lặng, sáng suốt, an lạc là một việc làm rất khó. Bởi vì, chúng ta đang sống đang tương tác với xã hội này, mà xã hội thì luôn luôn vận động và lôi cuốn con người vào guồng máy vật chất. Mọi chuyện dù lớn hay nhỏ đều tác động ít hay nhiều đến với chúng ta. Có đôi lúc chúng ta cảm thấy mệt mỏi và khi hoàn cảnh đưa đẩy ta bàng hoàng nhận ra,hình như mình đã không còn là mình và mọi chuyện đang không nằm trong tầm kiểm soát của mình nữa. Những lúc ấy nếu không vững tâm thì thật là tai hại. Ta sẽ có những sai lầm, mà thời gian thì không bao giờ trở lại để sửa những sai lầm.

Vậy chúng ta cần phải làm gì để giữ cho Tâm mình trở về với Phật tánh của mình?

Con đường chấm dứt khồ đau không đâu xa. Đó chính là tìm về với Phật tánh của mình. Đó là con đường tu giới,định,tuệ. Con đường tu tập theo chánh pháp,chọn pháp môn phù hợp và :

“ Dứt ác làm lành giữ tâm hồn cho trong sạch đó chính là Phật Pháp”.

Từ trái tim tôi muốn gừi đến các bạn hãy luôn là mình bạn nhé.Và hãy tìm ra Phật Tánh của mình. Trước những khó khăn,thử thách của cuộc đời này chúng ta hãy mạnh mẽ lên,luôn giữ cho Tâm mình luôn an lạc,thanh tịnh,dứt trừ phiền não. Và hãy luôn tha thứ cho người khác để chúng ta luôn cảm thấy thanh thản và nhẹ nhàng.

“Còn gặp nhau thì hãy cứ vui

Chuyện đời như nước chảy hoa trôi

Lợi danh như bóng mây chìm nổi

Chỉ có tình thương để lại đời”.

Và chúng ta hãy là một viên đá nhỏ,trong vô số viên đá khác, để chung góp xây đạo Từ Bi; sẽ là một tia sáng nhỏ trong vô số tia sáng khác, để cùng nhau nêu cao lời Phật dạy, để đem lại hạnh phúc và giác ngộ cùng khắp cho tất cả mọi loài.

Nguồn Kinh điển Phật pháp

Luận về chữ Tâm - Giải pháp nào cho đạo đức xã hội?

Đọc bài "Dạy và cấp bằng chữ “Tâm”, tại sao không?" của tác giả Hoài Phương trên Diễn đàn Dân trí ngày 28/1/2008, chúng tôi vẫn còn một số băn khoăn, xin được trao đổi qua một bài viết nhỏ này.
Những đôi trai gái yêu nhau thường nói “dâng hiến trái tim”, “đường vào trái tim”… Hạt nhân của chữ Tâm là tình cảm thương yêu, trân trọng con người, vạn vật, là khát vọng đem lại hạnh phúc cho con người, xây đắp một cuộc sống tốt đẹp. Chữ Tâm là gốc của đạo đức, đạo lí làm người, điều này được thể hiện rất rõ trong các kết hợp ngôn ngữ phổ biến: tâm đức, nhân tâm, tâm huyết, nhiệt tâm, thành tâm, thiện tâm, công tâm, nhất tâm, hằng tâm…

Chữ Tâm là một phạm trù cơ bản trong đạo lí truyền thống của dân tộc. Tâm qua cách viết tượng hình được các cụ giảng là những giọt máu đỏ thắm trong trái tim nóng hổi. Nếu như não được coi là xuất phát điểm của trí tuệ (Trí) thì trái tim được coi là trung khu của tình cảm, tâm lí.

Người Việt cũng nói: tà tâm, lãnh tâm, ác tâm, nhị tâm…để chỉ những kẻ độc ác, vô cảm, phản trắc. Xã hội nào cũng đề cao chữ Tâm, đề cao đạo đức, bởi vì chữ Tâm, đạo đức là gốc của sự hài hoà, vững bền, phát triển. Những danh nhân được tôn vinh đều là những người có tâm trong sáng, cao cả.

Việt Nam có ba danh nhân thế giới đều gặp nhau ở lòng nhân ái bao la, sâu thẳm: Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Chí Minh. Các tôn giáo cũng đều đề cao chữ Tâm, lòng nhân ái: Đạo Thiên Chúa đề cao lòng nhân ái, đạo Phật đề cao phẩm chất từ bi, hỉ xả và đạo Nho cũng coi nhân nghĩa là hạt nhân tư tưởng của mình.

Khi nói về chữ Tâm, nhiều người thường tách bạch “Tâm” và “Trí”. Thực ra trong mỗi người, Tâm và Trí là một sự thống nhất hài hoà không thể tách rời “tuy hai mà một”, đều là hoạt động tâm lí và có vai trò điều khiển hành động. Nếu như có mối quan hệ “Tâm-Trí” thì Trí tuệ là gốc chứ không phải Tâm là gốc như nhiều người ngộ nhận. Nếu người ta không nhìn thấy nhau, không hiểu nhau thì làm sao yêu nhau được? Nhận xét một người “có trí tuệ nhưng không có tâm” rõ ràng không thoả đáng, phải nói là người đó có vấn đề về trí tuệ thì mới đúng: tất cả những ai không có Tâm đều không có trí. Đạo Phật có khái niệm “giác ngộ” và gốc của giác ngộ là trí tuệ: những kẻ tàn ác, vô cảm, bất nhân dù tài giỏi đến mấy cũng là bất trí, u mê. Đó là minh triết của nhân loại đã được thừa nhận.

Một ngộ nhận nữa là khi nói về chữ Tâm, người ta thường nhấn mạnh ở khía cạnh “thương”, “yêu thương”, “cảm thương” mà coi nhẹ, bỏ qua yếu tố “ghét”, “căm ghét”, “phẫn nộ”.... Người không ghét cái xấu, không căm thù cái bất nhân thì sao có thể gọi là có Tâm được? Một nhà thơ nổi tiếng đã viết : “Bởi chưng hay ghét cũng là hay thương”.

Trước sự suy thoái về đạo đức xã hội, nói như tác giả Hoài Phương là chữ Tâm “có vấn đề”, nhiều người đã đưa ra những giải pháp khác nhau. Việc đưa nội dung giáo dục chữ Tâm vào chương trình giáo dục, rồi cấp bằng chữ Tâm… xem ra chỉ là ảo tưởng.

Nhiều người hễ thấy xã hội có những biểu hiện tiêu cực gì là nghĩ ngay đến việc đưa nội dung ấy vào nhà trường. Nếu cứ đà này, chương trình giáo dục phổ thông sẽ trở nên quá nặng nề đến mức phải kéo dài thời gian học lên gấp đôi, gấp ba cũng chưa xong và không có một sự đảm bảo nào về mặt hiệu quả. Đó chẳng qua là một biểu hiện của sự bế tắc.

Nhà trường chỉ là một phần của xã hội, việc học ở trường chỉ trang bị được những kiến thức cơ bản có tính định hướng, chủ yếu là người ta học và trưởng thành từ “trường đời”. Sự đánh giá về hạnh kiểm đối với học sinh được phản ánh thông qua những nhận xét trong học bạ chỉ là một kết quả từ góc nhìn ở các mối quan hệ trong nhà trường, nên không thể đầy đủ và chính xác.

Một nhà triết học nổi tiếng đã viết: “Bản chất của con người là sự tổng hoà các mối quan hệ xã hội”. Thước đo đạo đức, chữ Tâm của con người phải xét từ mọi mối quan hệ xã hội mà con người tham gia. Vì vậy, muốn đánh giá, điều chỉnh về mặt đạo đức của con người, phải bắt nguồn từ các mối quan hệ xã hội, qui luật của cuộc sống chứ không phải từ nhà trường.

Có nhiều cách để điều chỉnh hành vi đạo đức của con người (xây dựng chữ Tâm): như nêu gương, tuyên truyền vận động, thuyết phục, giải thích, tạo dư luận ủng hộ cái tốt, phê phán cái xấu….Những việc ấy là rất cần thiết và đáng quí nhưng quan trọng và có tính quyết định nhất là điều chỉnh bằng pháp luật. Xin đừng nghĩ pháp luật là một cái gì đó lạnh lùng, cứng rắn hay “vô tình”.

Bản chất của pháp luật là một khế ước xã hội, được xây dựng trên cơ sở những nguyên tắc đạo đức, pháp lí phổ biến nhằm đảm bảo cho một xã hội công bằng, ổn định, bền vững. Pháp luật qui định những hành vi không được làm và những hình phạt tương ứng đã được xã hội thừa nhận và phổ biến rộng rãi, nhằm ngăn chặn, triệt tiêu những hành vi phương hại đến con người, đến cộng đồng.

Hệ thống qui phạm pháp luật cũng không phải là một cái “khuôn” cứng nhắc, cố định mà luôn được điều chỉnh cho phù hợp với thực tiễn. Như vậy, cái gốc của pháp luật là tình người, là cái Tâm, là đạo lí, nhân nghĩa. Cho nên, một khi xã hội có vấn đề về chữ Tâm, cái cần xem xét đầu tiên là hệ thống các qui phạm pháp luật và các cơ quan, nhân viên hành pháp. Xin nêu một ví dụ: ở Singapore, ý thức giữ gìn vệ sinh công cộng rất cao, đường phố sạch tinh, không ai vô ý xả rác, vứt tàn thuốc lá…bởi vì họ đã qui định rất rõ những hình thức trừng phạt nghiêm khắc với bất kì ai có những hành vi làm tổn hại đến môi trường, vệ sinh.

Bài học chống tham nhũng thành công của Singapore do ông Lý Quang Diệu đề ra cũng rất đáng suy ngẫm: tăng lương công chức, cải tổ bộ máy hành pháp, trừng phạt nghiêm khắc, công bằng đối với mọi hành vi tham nhũng chứ không phải là đưa nội dung chống tham nhũng vào nhà trường từ bậc tiểu học hay đi nói với những “quan tham” rằng: tham nhũng là xấu, là “phi đạo đức”. Pháp luật chính là nền tảng quan trọng nhất để xây dựng đạo đức xã hội, là miếng đất ươm mầm cho cái cây đạo đức đơm hoa kết trái.

Người Việt vốn duy tình, trọng tình, trọng trực quan nên không tránh khỏi những ngộ nhận. Nhiều người rất ca ngợi việc một doanh nghiệp bỏ ra hàng trăm triệu đồng để làm từ thiện, nhưng lại bỏ qua những yếu tố khác như : doanh thu, tình trạng đóng thuế, giá cả, chất lượng các sản phẩm của công ty đó, rồi công ty đó có gây ô nhiễm môi trường hay không, mục đích thực sự của việc từ thiện ấy… Đây là một cản trở rất lớn cho quá trình xây dựng nền pháp chế.

Trước khẩu hiệu “Sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật” của nước ta, một người nước ngoài ngạc nhiên: Tại sao lại thế? Phải coi pháp luật như không khí để thở thì mới đúng. Lại vòng về vấn đề ý thức của người dân, vấn đề nâng cao nhận thức của người dân về pháp luật, nâng cao dân trí. Đó là con đường đúng đắn để ổn định và phát triển đất nước. Thực tiễn hàng ngàn năm của lịch sử nhân loại đã cho thấy: quốc gia nào pháp luật được tôn trọng thì thịnh, quốc gia nào pháp luật bị khinh nhờn thì tất suy.

Trần Quang Đại quangdaiht@gmail.com


Trường THPT Trần Phú, Đức Thọ, Hà Tĩnh.


LTS Dân trí - Qua ba bài viết tham gia ý kiến về chủ đề “chữ Tâm”, tuy rằng cách hiểu, cách đặt vấn đề vẫn còn những điểm khác nhau, nhưng có thể nhất trí về cơ bản: coi “chữ Tâm” là gốc của đạo đức, đạo lý làm người.

Chữ Tâm không phải là một khái niệm trừu tượng chỉ để tôn thờ, mà nó hiện diện ở tấm lòng tốt của mỗi người và được thể hiện ở hành động, ở tinh thần trách nhiệm đối với công việc, ở cách xử sự giầu lòng nhân ái, ở thái độ bất bình trước những thói hư, tật xấu, luôn đứng về phía chân lí.

Một người biết coi trọng lẽ sống, có nhân cách, có đạo đức tốt cũng là người có chữ Tâm. Điều ấy cho thấy chữ Tâm không tự nhiên mà có trong mỗi con người, mà đó là kết quả của quá trình giáo dục và tự giáo dục, quá trình tu dưỡng rèn luyện của mỗi người. Môi trường giáo dục của gia đình cũng như của nhà trường và xã hội có vai trò quan trọng góp phần tạo dựng cơ sở ban đầu cho việc hình thành chữ Tâm từ tuổi ấu thơ cho mỗi con người.


Nguồn Dân trí

Vẻ đẹp huyền ảo đất Việt

Đường chân trời rực sáng khi bình minh ló dạng, trẻ thơ đùa nghịch trong ánh chiều tà... là những khoảnh khắc ấn tượng trong ngày trên khắp mọi miền của Việt Nam được các độc giả VnExpress.net chia sẻ.

Bình minh trên cánh đồng lũ. Ảnh: dntrung_66.
Cánh đồng ở Châu Đốc, An Giang, rực sáng lúc bình minh. Ảnh: Đinh Ngọc Trung.
Cháu bé nhảy xuống dòng sông ở Mỹ Tho trong ánh mặt trời đỏ rực. Ảnh: Jamie Mellor.
Trẻ em nô đùa trên triền đê làng Phú Lãng, Bắc Ninh. Ảnh: Shotgun911.
Daklak-Trần Việt Dũng
Người dân ở buôn Jun, Dak Lak, chèo thuyền về sau một ngày đánh bắt cá. Ảnh: Trần Việt Dũng.
Con thuyền cô độc trên hồ Lak khi chiều dần tắt nắng. Ảnh: Trần Việt Dũng.
Cất vó trên sông Tha La. Ảnh: Bienla.
Cất vó trên sông Tha La, Châu Đốc, An Giang, trong mùa nước nổi. Ảnh: Bienla.
Nhơn Trạch Đồng Nai-Adegsm
Đàn trâu cặm cụi trở về nhà dưới nắng chiều ở Nhơn Trạch, Đồng Nai. Ảnh: Adegsm.
Hoàng Hôn Hồ Lack- Dntrung_66
Hoàng hôn trên hồ ở Ban Mê Thuột. Ảnh: Đinh Ngọc Trung.
Cô gái H'mong mơ màng dưới ánh chiều tà. Ảnh: NaPix.
Come back. Ảnh: Adegsm.
Chim sải cánh trở về tổ. Chụp ở TPHCM. Ảnh: Adegsm.

Nguồn VnExpress

Thứ Tư, 5 tháng 8, 2009

DƯỠNG SINH KHÍ CÔNG NAM HUỲNH ĐẠO


Dưỡng sinh la nuôi dưỡng sự sống !

Con người ngay khi mới hình thành sự sống của bào thai trong bụng mẹ đã cần phải được nuôi dưỡng thật cẩn mật. Bào thai sống bằng tiên thiên khí tức mang thiên tính sinh tồn cao nhất. Đứa bé được sinh ra, theo thời gian cơ thể càng lớn lên thì càng đánh mất dần tiên thiên khí đó mà chỉ sống bằng khí hậu thiên hình thành từ ba nguồn dưỡng khí, đó là : khí trời, khí đất và khí người. Để con người có thể tồn tại được trong từng hơi thở phải nhờ nguồn dưỡng khí của trời, đó là oxi qua máu nuôi sống tất cả các tế bào trong cơ thể. Kế đến, nguồn thực dưỡng mà con người ăn vào mỗi ngày nuôi sống các bộ phận của cơ thể đều được sinh ra từ đất (khí đất). Và khí người chính là các hình thái vận động thân tâm phục vụ cho dưỡng sinh và chiến đấu sinh tồn.

Ngày nay, chất lượng cuộc sống của con người đang bị đe dọa nghiêm trọng bởi sự mất cân bằng của hệ sinh thái làm ảnh hưởng đến môi trường sống (nguồn không khí và thực dưỡng bị ô nhiễm) và sự sai lệch hệ vận động thân tâm làm con người không thể tự chủ, bị cuốn theo nhịp sống gấp của thời đại nên dễ dẫn đến bị căng thẳng, sân giận, đau bệnh do không nắm bắt được các qui luật vận động. Con người đang làm mất cân bằng ba nguồn dưỡng khí nuôi dưỡng sự sống của chính mình !

Nay, Môn phái Nam Huỳnh Đạo thông báo chính thức mở lớp dưỡng sinh khí công cho tất cả mọi người, đặc biệt là người cao tuổi và người có bệnh. Dưỡng sinh khí công Nam Huỳnh Đạo là phép vận động giúp cường kiện sức khỏe cho mọi người qua đúc kết thực tiễn lâm sàng Y Võ dưỡng sinh, nhân thể luận và khí hóa luận. Về nguồn gốc, Môn phái Nam Huỳnh Đạo được hình thành trên nền tảng công phu dòng võ gia truyền Huỳnh gia kết hợp các nguyên lý, nguyên tắc mang tính chỉ đạo của Y gia, Thái gia, Phật gia cùng với công phu bảo lưu cẩn mật những giá trị di sản quí giá của tổ tiên dân tộc Việt Nam. Hàng trăm năm qua, gia tộc họ Huỳnh đã đóng góp rất lớn vào sự nghiệp bảo vệ sức khỏe của nhân dân bằng thực chứng chữa bệnh lâm sàng Y Võ và Nam Huỳnh Đạo ngày nay đang phát huy mạnh mẽ truyền thống đó thông qua con số hàng ngàn môn sinh tập luyện thường xuyên tại các võ đường của Môn phái. Tất cả các môn sinh qua tập luyện trong môi trường Võ đạo này đều chuyển biến tích cực tâm thân, cường kiện sức khỏe một cách nhanh chóng.

Địa điểm tập luyện :

1. Công viên Kỳ Hòa, Quận 10 ( ĐT: 0937.508717)

2. Công viên Lê Thị Riêng, Quận 10 ( ĐT: 0937.508717)

3. Công viên Tao Đàn, Quận 3 ( ĐT: 0120.861.6186 hoặc 0902.614.570 )

4. Công viên 23/9, Quận 1 ( ĐT: 0938.369702)

5. Nhà thi đấu Rạch Miễu, Q.Phú Nhuận ( ĐT: 0904.100.900)

Và các nơi khác ………………………………….

VĂN HÓA VIỆT NAM – MINH TRIẾT HÒA HỢP

Vũ trụ thật huyền bí ! Càng khám phá vũ trụ, con người càng thấy mình quá bé nhỏ trong sự vĩ đại bao trùm của tạo hóa.

Với những tiến bộ vượt bậc về khoa học công nghệ, con người đã phát minh ra nhiều máy móc, phương tiện hiện đại có thể xuyên cả không gian và thời gian, đi đến những hành tinh xa xôi trong vũ trụ. Vậy mà con người vẫn không thể nào đương cự nổi sức mạnh tàn phá của một cơn sóng thần hay những đợt phun trào của một ngọn núi lửa. Con người không thể chinh phục thiên nhiên mà chỉ có thể hòa hợp để sống chung với thiên nhiên trong hòa bình!

Trong thế giới loài người trên trái đất này cũng đã có quá nhiều điều kỳ bí mà ta chưa biết hết: nhiều nhóm sắc tộc, nhiều nền văn hóa, nhiều phong tục tập quán khác nhau… mà con người trên toàn thế giới đã phải trải qua một quá trình lâu dài đấu tranh sinh tồn đúc kết nên. Một là chinh phục thiên nhiên và muôn loài, hai là thuần phục trước sức mạnh huyền bí đó.

Trong thời đại quốc tế hóa như hiện nay, con người như xích lại gần nhau hơn và luôn mong muốn cùng trao đổi, chia sẽ những nét đẹp văn hóa mang tính bản sắc riêng của từng dân tộc. Dân tộc Việt Nam chúng tôi cũng vậy, luôn sẵn sàng tiếp thu và chia sẽ những giá trị văn hóa có thể đem đến cho loài người hòa bình, chân hạnh phúc và tiến bộ.

Đất nước Việt Nam có một nền văn hiến lâu đời thể hiện bằng lịch sử chân thật hơn bốn ngàn năm. Văn hóa Việt Nam mang một bản sắc rất riêng, đó là sự hòa hợp - hòa hợp với thiên nhiên, với muôn loài và với loài người… để cùng tồn tại tốt. Môn phái Nam Huỳnh Đạo tự hào là nơi còn lưu giữ trọn vẹn những giá trị căn cơ về di sản văn hóa dân tộc Việt Nam. Nam Huỳnh Đạo lấy võ làm phương tiện cứu cánh để chuyển tải nét đẹp của văn hóa dân tộc đến với người dân Việt Nam và bạn bè quốc tế.

Đến với Nam Huỳnh Đạo là được hòa mình và khám phá những nét đẹp của văn hóa Việt Nam !

Cội nguồn hạnh phúc

Hiếm ai thấy được khuôn mặt hạnh phúc toàn vẹn. Thế nhưng ai cũng hiểu để chung sống suốt đời với một người khác giới gọi là vợ hay chồng, rất cần yêu và thấu hiểu con người đó. Không chỉ yêu đôi mắt, làn môi, mà cần cả yêu tính cách, cử chỉ và hành động. Đó là tâm hồn ở mỗi người, là vẻ riêng biệt ẩn chứa bên trong con người đó...

Chuyện ngày xưa

Thời trước, có một vị tướng tài lập được công to, vua liền mở yến tiệc khen thưởng và ban cho vị tướng đó một người thiếp xinh đẹp làm bầu bạn. Sau khi nghe lệnh ban thưởng giữa lúc tiệc vui, vị tướng tài đã xin vua cho tâu thật sự suy nghĩ của mình: “Muôn tâu bệ hạ, ân đức của người hạ vô cùng cảm kích, chỉ e thần không thể nhận được bổng lộc vua ban.” Nhà vua rất lấy làm ngạc nhiên: “Ta nghe nói ở quê ngươi có một người vợ già xấu xí nên mới ban tặng thưởng đó để làm ngươi vui. Vậy chăng hà cớ vì sao nhà ngươi lại chối từ ân đức đó?”. Vị tướng trả lời:”Vợ thần tuy nhà quê, vừa xấu vừa già, nhưng lại có một tâm hồn tuyệt đẹp. Khi hạ thần rời quê lên kinh thành dự thi, nàng đã nguyện một mình ở lại nuôi con cho hạ thần yên tâm đỗ đạt thành tài, lại gắng làm kiếm tiền cho chồng mang đi đường ăn học. Khi hạ thần nhận chiếu chỉ vua ban cầm quân ra chiến trường diệt giặc, vẫn chỉ mình vợ hạ thần nhận trọng trách vừa nuôi con vừa chăm sóc bố mẹ già của thần ở quê nhà. Công lao đó ví như trời biển, thử hỏi hạ thần làm sao đền đáp. Nếu hạ thần nghe theo nhà vua nhận bổng lộc này, coi như phụ tình người vợ ơn cao nghĩa cả, tuy già xấu nhưng lại có một tâm hồn đẹp thật hiếm ai có nổi”. Nghe đến đây nhà vua hiểu ra và hết lời khen ngợi vợ vị tướng nọ ăn ở tình nghĩa vẹn toàn, đáng để người người noi gương học tập.

Đó là một ví dụ rất điển hình để minh chứng cho thuyết yêu “tâm hồn “ ở con người. Gọi yêu “tâm hồn” cho văn vẻ, lãng mạn. Thật ra xưa kia các cụ hay cho đó là tình cảm gắn bó giữa hai tính cách con người, hay gọi là gắn bó với nhua bởi cái tính, cái nết. “Tâm hồn” mỗi người trước kia được hiểu là cái tâm, cái nết ở mỗi người, là cái cốt lõi, bản chất con người đó mà cụ Nguyễn Du đã từng phác họa vẻ đẹp tâm hồn bằng vần thơ “Mai cốt cách, tuyết tinh thần”. Tâm hồn cáo quý, khi hòa hợp với nhau sẽ nên duyên vợ chồng.

Thế nên, cho dẫu lấy được người đẹp mà không hợp không hợp nết, không đồng điệu tâm hồn và không hợp tính, hợp tình sẽ vô cùng khổ sở và bất hạnh. Cuộc sống vợ chồng sẽ luôn mâu thuẫn, lục đục.

Và chuyện ngày nay

Dường như “ tâm hồn” đã bị giới trẻ ngày nay xem nhẹ. Dưới tác dụng của các tính toán, vụ lợi, cá nhân. Dưới tác dụng của kinh tế thị trường đầy âm mưu, lợi nhuận… Dưới lối sống hiện đại đang ngày càng tiêm chích mạnh mẽ vào cách sống của giới trẻ, tư tưởng của họ cũng như quan niệm của họ về tình yêu, cuộc sống dường như có nhiều điểm khác, thậm chí khác biệt hoàn toàn với lớp thế hệ ông bà, cha mẹ, anh chị của họ. Nếu cứ chọn “ tâm hồn” mà yêu trước nhất, sau đó mới nghĩ đến hình thức và các mặt khác như những thế hệ đi trước vẫn làm thì bọn trẻ thời nay cho là “hâm “ là cổ điển, lỗi thời.

Những câu chuyện tình cảm động được xuất phát chính từ tâm hồn của các bạn trẻ, dám vượt lên những giá trị vật chất, những tiêu chuẩn bình thường nhằm định giá cho một cuộc tình, để bảo vệ cho tình yêu chân chính xuất phát từ chính trái tim và tâm hồn. Có hay không một sự định hướng? Có hay không một sự học hỏi, noi theo từ thế hệ trước? Hay đó là một sự nhìn nhận hoàn toàn tự giác, tự nguyện từ một lớp người tiên tiến, thức thời?

Để tương lai của mỗi chúng ta sẽ là hạnh phúc. Để tuổi già chúng ta sẽ được an nhàn và hưởng thụ những thành quả tốt đẹp do chính chúng ta vun trồng, không gì cấp bách và không nằm ngoài mục tiêu giáo dục tư tưởng, lối sống cho chính con, cháu, em chúng ta. Từ cách nhìn nhận đúng đắn về cuộc sống, con người, chúng sẽ có nhìn xác thực về tình yêu lứa đôi và cuộc sống vợ chồng hạnh phúc. Chúng sẽ phân biệt được rằng thế nào là tình yêu chân thực, thế nà là một cuộc tình nhuốm màu vụ lợi của những đồng tiền. Nếu chúng ta dạy cho chúng biết cách yêu chân thật, chúng sẽ biết yêu từ trái tim, từ sự rung động của tâm hồn, và đó mới chính là cội nguồn hạnh phúc, đó mới chính là tình yêu – hạnh phúc của đời người.

Đâu là chân hạnh phúc ?

Khát vọng hạnh phúc là khát vọng lớn nhất của con người. Mỗi người với suy tư và hành động mong muốn tạo cho mình cuộc sống an lành, dễ chịu theo ý thích. Do suy tư hoàn cảnh, môi trường của mỗi người khác nhau nên không ai giống ai về mục đích đạt được. Có thể hạnh phúc của kẻ ăn mày là một bữa cơm cao sang, nhưng với người giàu sang thì không phải thế.

Niềm vui của người nghiên cứu, người buôn bán, người làm việc bằng chân tay, người làm việc bằng trí não... mỗi mỗi đều mang một hình ảnh khác nhau. Tuy vậy tất cả hoàn toàn giống nhau về tính chất, đều xây dựng trên nền tảng tư duy ngã tính.

Đem vọng tâm chấp ngã kia truy tầm hạnh phúc thì không bao giờ có được hạnh phúc chân thật, nếu có chăng chỉ là sự giả tạm, tan tụ bất chợt. Vì các pháp vốn là duyên sinh, vô thường, vô ngã nhưng chúng sinh lại tham ái chấp thủ nên cố chạy theo hiện tượng giả huyễn, truy tìm hạnh phúc khắp trong ba cõi. Càng tìm cầu chúng sinh càng chịu nhiều khổ đau; càng khổ đau họ càng nỗ lực tìm kiếm, cứ mãi xoay quanh không bao giờ cùng, chẳng khác nào kẻ lữ hành khát mà uống nước biển, thì càng uống càng khát. Đức Phật với tuệ giác vô lậu đã thấy rõ chúng sinh sở dĩ khổ đau là vì tham ái (tham dục). Cho nên Ngài đã dạy chúng đệ tử: "Các dục vui ít, khổ nhiều, não nhiều, sự nguy hiểm lại càng nhiều hơn". Nhưng theo quan niệm bình thường thì họ cho rằng hạnh phúc nhất là được hưởng thụ ngũ dục lạc. Điều này chúng ta cần hiểu như thế nào? Muốn hiểu được ý nghĩa lời dạy trên, trước hết chúng ta cần tìm hiểu các dục là gì?

Dục, trước hết là sự tham lam, ham muốn được thoả mãn; là mục tiêu con người hướng đến để đạt được lòng mong cầu. "Dục" cũng còn gọi là "ái", tức là sự thèm khát. Ái có ba loại: dục ái, hữu ái và vô hữu ái. Với cách hiểu thông thường thì "dục" không ra ngoài năm loại (ngũ dục): tài, sắc, danh, thực, thuỵ.

Theo Đại kinh Khổ Uẩn giải thích Dục như sau: "Các dục là năm dục trưởng dưỡng hay năm yếu tố khiến tăng trưởng lòng ham muốn, gồm sắc đẹp, tiếng hay, hương thơm, vị ngon, cảm xúc êm dịu." Và kinh Xà dụ làm rõ thêm: "Dục ví như khúc xương, như bó đuốc, hố than hừng..., như đầu rắn..., như lò thịt..."

Định nghĩa và ẩn dụ về các Dục thì có rất nhiều nhưng chung quy đều chỉ cho sự ham muốn cần được thoả mãn gọi là "dục". Như vậy bản chất của dục là khổ hay vui? Theo quan niệm thế gian, người ta cho rằng: dục đem lại hạnh phúc khi hoàn toàn thoả mãn, và dục là khổ chỉ là lập luận của những kẻ bất hạnh luôn thất bại trên đường đời, nên cuối cùng trở thành bi quan yếm thế không dám hưởng thụ, không dám hy vọng một tia sáng nào nơi sự sống. Đây là lối nhìn phiến diện hay tiêu cực mà đức Thế Tôn đã nhận ra. Vì Ngài đã liễu tri các pháp, nên đối với các dục Ngài không phủ nhận nó, không tiêu cực đối với nó, không coi nó là kẻ thù. Ngược lại, Thế Tôn có cái nhìn đúng đắn về nó, tức Ngài cũng thấy được "vị ngọt" của các dục, thấy được sự nguy hiểm của các dục và các phương pháp để xuất ly dục. Vì vậy, Ngài đã dạy các Tỳ-kheo: "Đối với các dục, vị ngọt của các dục, sự nguy hiểm các dục và sự xuất ly các dục, chỉ có Như Lai, đệ tử của Như Lai và những ai được nghe hai vị này mới liễu tri được các vấn đề đó". Do đó, Thế Tôn định nghĩa: "Các sắc do mắt nhận thức, khả ái, khả lạc, khả hỷ, tương ưng với dục, hấp dẫn; các tiếng do tai nhận thức...; các hương do mũi nhận thức...; các vị do lưỡi nhận thức...; các xúc do thân nhận thức khả ái, khả lạc, khả hỷ, tương ứng với các dục hấp dẫn... y cứ vào năm pháp này có hỷ lạc gì khởi lên như vậy là vị ngọt của các dục". Vậy nếu hiểu biết một cách hời hợt, thiếu tư duy thì bất cứ ai cũng sẽ cho rằng dục là hạnh phúc, là lạc thú, đem lại hấp dẫn, niềm vui cho con người. Chỉ có đức Phật mới liễu tri đằng sau cái vui ấy, ngọt ngào ấy là cả một hố sâu khổ đau.

"Đoạn trường ai có qua cầu mới hay". Nên dù đức Thế Tôn dạy "dục là khổ não, là nguy hiểm", nhưng nếu ai chưa tự thân chứng nghiệm thì lời dạy đó vẫn như là một trang sách cất kỹ chưa từng được áp dụng. Thậm chí có người còn lên tiếng cho rằng, lời dạy đó không thiết thực. Vì đối với bản thân họ, dục vẫn đem lại cho họ niềm hạnh phúc. Như trong Kinh Phật có kể một câu chuyện: "Thời Phật còn tại thế, nhân một lần cùng Tôn giả A-nan đi hành hoá, trên đường đi Ngài thấy một thỏi vàng, Ngài quay lại bảo A-nan: "Này A-nan, rắn độc, nên tránh đi!" A-nan cũng nhìn và bạch Phật: "Bạch Thế Tôn, rắn độc". Rồi hai thầy trò tiếp tục đi. Sau hai thầy trò có một người nông dân đi tới nhìn thấy thỏi vàng, ngạc nhiên nghĩ: "Hai thầy trò ông Cù-đàm thật là lạ, vàng mà gọi là rắn độc". Ông đem vàng về, tậu ruộng vườn, sắm xe cộ... Ít lâu sau, nhà vua mất vàng cho lính đi điều tra, thấy ông nông dân này khi không mà giàu có, liền nghi cho ông lấy vàng của nhà vua. Rõ ràng "tình ngay lý gian". Ông bèn bị bắt giam. Lúc ngồi ở trong ngục đói rét cơ cực, ông mới nghĩ lại lời dạy của đức Phật bảo với ngài A-nan. Ông tỉnh ngộ thốt lên: "Ông cù-đàm ơi, đúng là rắn độc".

Qua câu chuyện trên chúng ta thấy rằng, nếu ai chưa thấy được "vàng" là "rắn độc" thì làm sao tin được các dục là khổ não nhiều? Vì đằng sau cái dáng vẻ ngọt ngào, hấp dẫn, thu hút thì nó đã dành sẵn cho chúng ta vô vàn nguy hiểm. "Mật ngọt" thường là "cạm bẫy" thu hút bọn ruồi, các dục đối với chúng sinh cũng lại như vậy. Thấy "ngọt" mà lao đầu vào thì sẽ bị vong thân vì nó.

Hơn thế nữa, Thế Tôn lại nhấn mạnh "các dục" không những khổ não nhiều mà sự nguy hiểm lại càng nhiều như trong Đại Kinh Khổ Uẩn dạy sự nguy hiểm các dục rất nhiều, ở đây chỉ nêu một vài trường hợp khái quát.

Vì miếng cơm manh áo, con người phải bỏ ra sức lao động, phải lao vào những hoàn cảnh nguy hiểm, đương đầu với lạnh, nóng, đói khát, bị áp bức bởi thời tiết, gió, sức nóng, mặt trời, sự xúc chạm của ruồi muỗi... đó là sự nguy hiểm do các dục đưa lại.

Người ta muốn có được tài sản nên nỗ lực tinh cần làm lụng nhưng tài sản vẫn không đến tay mình, nên sinh ra sầu muộn, than vãn...

Hoặc người ấy nhờ nỗ lực làm việc nên thu hoạch được tài sản, có tài sản rồi thì lo lắng gìn giữ, mong sao tài sản không bị mất đi. Nhưng tài sản ấy do nhiều nguyên nhân cũng mất đi. Hoặc do thiên tai, hoặc do cướp bóc... nên người ấy sinh ra buồn rầu, khóc than.

Hoặc do các dục làm nhân, do các dục làm duyên, vua chúa tranh đoạt với nhau, cha mẹ với con cái tranh nhau, anh em gây bất hoà nhau...

Hoặc do các dục làm nhân, do các dục làm duyên gây ra chém giết nhau, chiến tranh, khủng bố, tù tội, cướp đoạt, đi đến vợ người, làm mười điều ác, đến nỗi thân hoại mạng chung, người ấy bị sinh vào ác thú, đọa xứ, địa ngục...

Tất cả những điều trên đều là sự nguy hiểm của các dục não hại đến con người hoặc trong hiện tại, hoặc trong tương lai. Nhưng nguy hiểm nhất là dẫn đến sự tái sinh trong ác thú, đọa xứ.

Lời dạy trên là bài học thiết thực cho những ai có tâm tu, có chí hướng thượng. Vì đức Thế Tôn rất tế nhị, Ngài đưa ra lời dạy với mục đích chỉ rõ cho đệ tử của Ngài thấy sự tập khởi các dục, vị ngọt các dục, sự xuất ly các dục để tự mỗi người phải có thái đô sống đích thực hữu ích.

Từ đó chúng ta thấy vì sao đức Phật lại dạy lối sống trung đạo, lìa xa hai thái cực. Như vậy hưởng thụ ngũ dục có phải là hạnh phúc chân thật? Điều này chỉ đúng cho những người có ác tri kiến, họ sống cuồng say trong ngũ dục, mà quên đi hậu quả do ngũ dục đem lại.

Ngược lại, muốn có được chân hạnh phúc không còn cách nào khác là chúng ta phải có thái độ sống xa lìa ngũ dục lạc, sống thiểu dục tri túc.

Chúng ta biết rằng, động cơ đưa đến mọi tham dục phát xuất từ suy nghĩ có một "cái tôi" tồn tại nên cứ lo trưởng dưỡng "cái tôi" mà tạo ra lắm khổ đau. Những khoái cảm, những lạc thú là sản phẩm của cái "tôi", của tự ngã. Vì thế không thấy được dục lạc là bệnh khổ, là mũi tên, là thuốc độc, là cục bướu như trong kinh 42 Chương, đức Phật đã đưa ra ví dụ: đứa bé liếm đường phèn trên lưỡi dao, vì ham chút vị ngọt mà quên sự nguy hiểm của lưỡi dao. Đó là hậu quả của sự say mê cái lợi trước mắt mà quên đi cái khổ về sau.

Vì sự nguy hiểm của dục như thế, nên trong Kinh Pháp Cú, đức Phật một lần nữa khẳng định:

"Đường này đến thế gian,
Đường kia đến Niết-bàn,
Tỳ-kheo đệ tử Phật,
Phải ý thức rõ ràng".

(Kinh Pháp Cú)

"Thế gian" là con đường vui hưởng ngũ dục lạc thì sẽ dẫn đến kết quả đau khổ. Vì "vui trong dục lạc vui là khổ; khổ để tu hành khổ hoá vui". "Vui" ở đây là Niết-bàn đạt được. Người Phật tử phải ý thức rõ về điều đó để có thái độ tu tập đúng đắn.

Từ ngàn xưa, thời đức Phật còn tại thế cho đến nay, "thiểu dục tri túc" được xem như là giới căn bản của mọi giới, là tư tưởng chủ đạo của các bậc xuất gia phàm thánh. Vì đây là tư tưởng trung đạo không đưa đến cực đoan nào, kể cả mặt vật chất lẫn tinh thần. Nghe những gì cần nghe, biết những gì cần biết... Nói tóm lại, những gì cần cho cuộc sống phạm hạnh và mục đích giải thoát. Muốn vậy hành giả không thể thiếu chánh kiến – điều kiện quan trọng trong Bát chánh đạo. Cho nên thiếu chánh kiến thì người tu khó mà thành tựu con đường giải thoát, lắm lúc lại còn lạc vào con đường tà kiến. Nhìn lại cuộc sống hiện đại văn minh ngày nay, nền vật chất chúng ta vô cùng sung túc. Nếu chúng ta không có tinh thần "thiểu dục tri túc" thì sớm muộn gì chúng ta cũng rơi vào hưởng thụ và tham đắm vật chất. Càng tham đắm vật chất thì tâm hồn càng bị ô nhiễm. Ngày xưa, đức Phật, chư Tổ thanh bần mà lạc đạo. Nên công phu tu tập của quý Ngài vô cùng hanh thông.

Còn ngày nay vật chất đầy đủ như thế là chúng ta đã "thiếu may mắn", bởi không có nhiều cơ hội để cọ xát với "tam thường bất túc"; không có nhiều cơ may để trưởng dưỡng nội tâm, hạ thủ công phu ngõ hầu đạt được giác ngộ. Trong ý nghĩa "hạnh phúc chân thật" chính là "hạnh phúc giác ngộ" và chân hạnh phúc chính là giác ngộ tối thượng mà chư Phật chư Tổ đã tìm ra, vậy chúng ta nếu muốn có hạnh phúc như quý Ngài thì trước tiên chúng ta phải xây dựng chánh kiến để từ đó có thái độ yểm ly thế gian, xa lìa ngũ dục lạc, thường sống với lập trường cao quý đó là "thiểu dục tri túc" kể cả tinh thần, vật chất và mọi phương diện khác trong cuộc sống.
Dạ Chí Nhân
Theo Liễu Quán Huế

Hạnh phúc rất đơn sơ…

Buổi sáng, mở tờ báo, mọi người chưng hửng, rồi tủm tỉm cười: Việt Nam mình hạnh phúc nhất Châu Á, xếp thứ 12 trên thế giới. Trong khi đó, Singapore - một "thần tượng” của mình lâu nay lại đứng hạng bét Châu Á và hạng thứ 131 của thế giới! Mỹ còn tệ hơn, hạng 150, rồi Anh 109, Pháp 129, Nhật 95 và Đức 85... Ai đó lên tiếng bên tách cà phê sáng vỉa hè Sài Gòn, giữa những ngày bão rớt, với dồn dập những tin động đất, lũ lụt, sóng thần, núi lửa, dịch bệnh, chiến tranh...: "Chẳng lẽ rồi đây mình sẽ phải phấn đấu... để giảm dần hạnh phúc xuống cho bằng với Singapore, rồi bằng với các nước Âu Mỹ khác”?

Kết quả đó chẳng phải chuyện đùa, mà là một công trình nghiên cứu nghiêm túc của Tổ chức NEF (New Economics Foundation of Anh). Họ đưa ra khái niệm Happy Planet lndex (HPI) – chỉ số hành tinh hạnh phúc cho một thế giới toàn cầu hóa, rồi tính toán để xếp loại 178 quốc gia trên thế giới theo tình trạng "hạnh phúc" của đất nước họ. Kết quả thật bất ngờ, hạnh phúc nhất thế giới lại là cư dân của một quần đảo nhỏ bé ở Nam Thái Bình Dương, nơi tràn ngập ánh nắng mặt trời và nước biển bốn mùa xanh trong là đảo Vanuatu.

Có chút gì đó "mỉa mai" chăng? Không đâu! Các nhà nghiên cứu NEF kết luận, một quốc gia không nhất thiết phải lớn, phải có GDP GNP (tổng sản lượng quốc gia) thật cao mới là hạnh phúc, không cứ phải tiêu thụ thật nhiều mới là hạnh phúc! Hình tượng hơn, họ nói không cần phải "hủy diệt” trái đất mới đem lại hạnh phúc cho con người. Phát triển mà khai thác đến cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, tàn phá cả hành tinh xanh để thỏa mãn lòng tham không đáy của con người, thì thật là nguy hiểm!

Họ đưa ra khái niệm well-being, sự sảng khoái, hạnh phúc, trong đó hạnh phúc của mỗi cá nhân phải là trung tâm của phát triển, phải dựa vào đó để đề ra những chính sách về kinh tế, xã hội, sử dụng tài nguyên sao cho hợp lý. Mỗi quốc gia đều phải có trách nhiệm bảo vệ quả đất này. Không phải cứ ỷ giàu, phóng vệ tinh tìm kiếm các hành tinh khác để di dân, lập ấp rồi sống chết mặc bay!

Nghiên cứu của NEF cho thấy trọng vòng 50 năm qua, không hề có sự gia tăng "hạnh phúc" ở người dân Anh và Mỹ - dù GPP của họ đã tăng gấp đôi ba lần, dù mức tiêu thụ năng lượng cũng tăng gấp nhiều lần. Theo cách tính toán của NEF, nếu ai cũng tiêu thụ như người dân Anh hiện nay thì phải có đến "3,1 trái đất" mới đủ tài nguyên để cung phụng! Đức và Mỹ có tỷ lệ người dân hạnh phúc ngang bằng nhau, trong khi Mỹ sử dụng tài nguyên gấp đôi Đức, chứng tỏ Đức hiệu quả còn Mỹ phung phí. Họ khuyến cáo người Anh cần có chính sách "thông minh hơn" và "xanh hơn"! Hiện nay, Anh quốc đã đưa môn "Hạnh phúc học" vào dạy thí điểm ở một số trường học rồi. Hình như con người càng chạy đua để hưởng thụ vật chất thì càng xa rời với hạnh phúc.

Một cuộc chạy đua như vậy thì không chỉ môi trường thiên nhiên bị hủy hoại, mà tâm hồn con người cũng sẽ bị tổn thương. Thỉnh thoảng, nghe đâu đó có một người giàu sụ , bỗng một hôm nổ súng vào đầu hoặc nhảy lầu tự sát, một số không ít người đang trên đỉnh vinh quang của tiền bạc, danh vọng lại đột ngột bỏ nhà đi, tìm một nơi rừng rú ở Miến Điện, Népal, Ấn Độ, Tây Tạng để... tu!

Các nhà nghiên cứu cho rằng cách tính GDP, GNP lâu nay đã không quan tâm, không thấy hết những thứ không quy được ra tiền như rừng xanh, nước sạch, không khí trong lành của một quốc gia, không tính được cái hạnh phúc của người dân được sống dưới mái nhà êm ấm, một gia đình bền vững, một công ăn việc làm ổn định, con cái học hành, khỏe mạnh. Cũng không tính được cái sảng khoái của người công dân trong một quốc gia mà sự an ninh , an toàn công cộng được đảm bảo, các giá trị văn hóa được bảo tồn và một chính quyền trong sạch, vì dân. GDP, GNP cũng không tính đến những việc làm thiện nguyện trong cộng đồng, chăm sóc người và giúp đỡ người neo đơn, tật nguyền, những việc nội trợ, nuôi con của người phụ nữ.

Trái lại, vì chạy theo phát triển kinh tế người ta sẵn sàng phá rừng, lấp biển, làm cho đá lở đất sụt, lũ quét, sóng thần, dịch bệnh... rồi đổ thừa cho thiên tai! Một số nơi đã thấy bắt đầu chặt hết cây xanh, trồng cây nhân tạo, làm núi giả, đá giả, hang động giả, để rồi sau đó mỗi người không chỉ trùm kín mặt với khẩu trang, mà còn phải đeo lủng lắng một cái bình dưỡng khí ở bên hông. Ở Nhật ngày nay, đã có người có sáng kiến bán những bình dưỡng khí nho nhỏ như vậy cho mọi người.

Từ hơn 30 năm nay, Bhutan, một quốc gia nhỏ bé dưới chân rặng Hy Mã Lạp Sơn đã kiên trì với chính sách: không dùng GDP, GNP để đo lường sự phát triển của quốc gia như các nước khác, mà tính bằng GNH, tổng hạnh phúc quốc gia, dựa trên những tiêu chuẩn khác. Tướng chỉ là cách "chơi ngông" của một quốc gia nhỏ bé, ở nơi hẻo lánh xa xôi, không ngớ các nhà khoa học, nhân chủng học, tâm lý xã hội học trên khắp thế giới lại đặc biệt quan tâm đến điều đó. Họ đã mở nhiều hội nghị quốc tế tại Mông Cổ, Hà Lan, Thái Lan... và mới nhất là tại Yokohama, Nhật Bản, từ ngày 8/11/2006 và sắp tới đây từ 22 – 28/10/2007 tại Thái Lan để bàn về vấn đề trên.

Gần đây, các nhà khoa học còn đưa ra khái niệm GIH- Gross In-ternational Happiness, tổng hạnh phúc quốc tế trong một thế giới toàn cầu hóa để mong đem hạnh phúc đến cho tất cả mọi người.

Cho nên NEF, với khái niệm HPI chỉ số hành tinh hạnh phúc đã đo đạc "hạnh phúc" các quốc gia trên thế giới, xếp Việt Nam mình vào hạng nhật Châu Á, hạng 12 thế giới chẳng phải đã là một tín hiệu đáng mừng - khi đất nước đang bước vào vận hội mới đồng thời cũng là một cảnh báo kịp thời cho chúng ta sao?

Hạnh phúc: Điều quan trọng nhất trong cuộc sống

“Điều quan trọng nhất trong cuộc sống? Nếu người ta hỏi một người trong cơn đói, đó sẽ là thực phẩm. Với một kẻ nào đang lạnh, đó sẽ là hơi ấm. Và nếu một ai đang cam chịu cô đơn, chắc chắn đó sẽ là sự gần gũi với người khác”.

Nếu có ai đã từng đọc quyển sách tiểu thuyết lịch sử triết học của Jostein Gaarder “Thế giới của Sophie” hẳn sẽ còn nhớ tác giả đã trả lời vấn đề mà mọi người đều cần phải quan tâm này bằng sự khẳng định của các triết gia: “Con người không chỉ sống bằng bánh mì. Mọi người đương nhiên cần thực phẩm. Cùng tình yêu và lòng trìu mến nữa. Nhưng có điều gì khác mà tất cả chúng ta đều cần: đó là biết chúng ta là ai và tại sao chúng ta sống”.

Bạn có bao giờ ngồi một mình thinh lặng và suy nghĩ về câu hỏi: “Bạn là ai? Tại sao bạn có mặt trên cõi đời này? Điều gì quan trọng nhất trong cuộc sống của bạn?”. Câu trả lời tùy thuộc vào mục đích sống của bạn là gì. Nếu mục đích sống của bạn là sự giàu có thì tiền bạc là quan trọng nhất. Nếu đó là có được một địa vị cao trong cuộc sống thì sự thăng tiến trong sự nghiệp là điều quan trọng nhất. Còn nếu đó là hạnh phúc thì gia đình và tình yêu là quan trọng nhất.

Có một điều mà bạn cần biết đó là cần phải coi trọng các giá trị tinh thần, quan tâm đến những giá trị tinh thần sẽ làm cho bạn cảm thấy hạnh phúc nhất hơn là coi trọng đồng tiền. Tiến sĩ Vũ Minh Khương trong bài viết “Năm mới, nói chuyện đổi mới tư duy” có nhận xét: “Hầu hết các doanh nhân giàu có và có tiếng tăm lừng lẫy đều bắt đầu sự nghiệp của mình bằng say mê và tâm huyết tạo nên giá trị mới đặc sắc cho xã hội chứ không phải tham vọng làm giàu bằng mọi giá. Sự giàu có dường như là hệ quả chứ không phải là động lực chính yếu cho nỗ lực vươn lên của họ”.

Người hạnh phúc là người biết mang lại hạnh phúc cho những người xung quanh. Tôi nghĩ rằng điều quan trọng nhất trong cuộc sống của mỗi người chính là sống làm sao cho mình được hạnh phúc và để làm được điều đó thì cần phải mang hạnh phúc đến gia đình, bạn bè, đồng nghiệp và cũng đừng quên mang hạnh phúc đến cho chính mình bằng những thú vui giải trí cùng mọi người xung quanh nhiều hơn. Cuộc sống luôn đa dạng và phong phú, hãy luôn quan tâm đến tất cả những điều đó.